Các loại HPV phổ biến
HPV (Human papillomavirus) là virus lây nhiễm qua đường tình dục phổ biến nhất hiện nay ở Hoa Kỳ với gần 80 triệu người đang nhiễm và khoảng 14 triệu người nhiễm mới mỗi năm. Có hơn 100 loại HPV tồn tại nên chúng có khả năng gây ra nhiều biến chứng hơn những loại virus khác. Các loại HPV được phân thành 2 nhóm: HPV nguy cơ thấp và HPV nguy cơ cao.
HPV nguy cơ thấp không gây ung thư cổ tử cung và có thể điều trị được. HPV nguy cơ cao có thể làm các tế bào bất thường hình thành trên cổ tử cung, dần dần phát triển thành ung thư nếu không được điều trị.
HPV-6 và HPV-11
HPV-6 và HPV-11 là các loại HPV nguy cơ thấp, gây ra khoảng 90% trường hợp mụn cóc sinh dục, trông giống như những nốt sần hình súp lơ trên cơ quan sinh dục. Chúng thường xuất hiện vài tuần hoặc vài tháng sau khi tiếp xúc với bạn tình nhiễm HPV. HPV-11 cũng có thể gây ra những biến đổi tại cổ tử cung.
Tiêm vaccine HPV có thể giúp ngăn ngừa HPV-6 và bảo vệ phần nào khỏi HPV-11. Đối với vaccine HPV Gardasil 9, các thử nghiệm lâm sàng cho thấy hiệu quả lên đến 89-99% trong việc bảo vệ chống lại các loại HPV 6 và 11. Sự giảm đáng kể chống lại việc lây nhiễm các loại này đã được ghi nhận ở những người từ 9 đến 26 tuổi.
Nên tiêm vaccine trước khi quan hệ tình dục lần đầu tiên, vì vaccine không thể bảo vệ chống lại loại HPV đã bị nhiễm.
Nếu nhiễm HPV-6 hoặc HPV-11, bác sĩ có thể kê toa các loại thuốc như imiquimod (Aldara, Zyclara) hoặc podofilox (Condylox). Đây là những loại thuốc bôi ngoài da có tác dụng phá hủy các mô mụn cóc ở bộ phận sinh dục.
HPV-16 và HPV-18
HPV-16 là loại HPV nguy cơ cao phổ biến nhất, thường không gây ra bất kỳ triệu chứng đáng chú ý nào mặc dù nó có thể làm biến đổi ở cổ tử cung. HPV-16 là thủ phạm cho 50% trường hợp ung thư cổ tử cung trên toàn thế giới.
HPV-18 là một loại HPV nguy cơ cao khác. Giống như HPV-16, nó thường không gây ra các triệu chứng rõ ràng nhưng có thể dẫn đến ung thư cổ tử cung.
HPV-16 và HPV-18 cùng gây ra khoảng 70% trường hợp ung thư cổ tử cung trên toàn thế giới.
Vaccine HPV Gardasil 9 có thể bảo vệ khỏi HPV-16 và HPV-18.
Phát hiện sớm HPV
HPV rất nguy hiểm, vì vậy phát hiện sớm HPV có ý nghĩa quan trọng trong việc điều trị và tránh lây nhiễm cho người khác. Phổ biến hiện nay có 2 phương pháp bao gồm: xét nghiệm Pap (còn gọi là Pap smear) và xét nghiệm HPV.
Xét nghiệm PAP giúp kiểm tra tế bào cổ tử cung nhằm phát hiện sớm tình trạng bất thường và điều trị kịp thời trước khi diễn tiến sang ung thư. Nếu xét nghiệm PAP cho thấy các tế bào bất thường, xét nghiệm HPV sẽ được thực hiện để đánh giá nguy cơ mắc các tình trạng nghiêm trọng hơn bao gồm cả ung thư cổ tử cung.
Nếu kết quả cho thấy bị nhiễm HPV nguy cơ cao, không có nghĩa là người bệnh sẽ bị ung thư cổ tử cung mà cho thấy nguy cơ cao trong tương lai. Bác sĩ sẽ sẽ xem xét kết quả và thảo luận về các lựa chọn điều trị hoặc theo dõi để phòng bệnh.
Tiêm ngừa HPV
Vaccine HPV bao gồm hai mũi, cách nhau từ 6 đến 12 tháng, cho những người từ 9 đến 14 tuổi. Đối với những người từ 15 tuổi trở lên, ba mũi được tiêm trong vòng sáu tháng. Những người trong độ tuổi từ 27 đến 45 chưa được tiêm vắc xin HPV trước đây hiện đủ điều kiện để sử dụng Gardasil 9.
Các loại vaccine HPV hiện có bao gồm:
- Cervarix cho HPV-16 và 18
- Gardasil cho HPV 6, 11, 16 và 18
- Gardasil 9 cho HPV 6, 11, 16, 18, 31, 33, 45, 52 và 58
Vì Gardasil 9 có thể bảo vệ khỏi nhiều loại HPV mà không có sự gia tăng các tác dụng phụ hoặc phản ứng có hại nên đây là lựa chọn tốt. Các tác dụng phụ thường gặp của Gardasil 9 là kích ứng tại chỗ tiêm bao gồm đau, sưng hoặc đỏ. Một số người có thể bị đau đầu sau khi tiêm.
References
- U.S National Library of Medicine. HPV. Retrieved March 16, 2021 from https://medlineplus.gov/hpv.html/
- Healthline. Common Types of Human Papillomavirus (HPV). Retrieved March 16, 2021 from https://www.healthline.com/health/sexually-transmitted-diseases/hpv-types/