Gen PIGT
Gen PIGT nằm trên nhiễm sắc thể 20, cung cấp hướng dẫn tạo ra một protein được gọi là thành phần GPI transamidase PIG-T (protein PIG-T). Protein này rất cần thiết để gắn một số protein lên bề mặt tế bào.
Chức năng chính
Protein PIG-T gắn một phân tử được gọi là neo glycosylphosphatidylinositol (GPI) vào các protein khác nhau bên trong tế bào. Sau khi neo GPI và protein liên kết, neo được gắn lên mặt ngoài màng tế bào. Protein neo thực hiện nhiều chức năng bao gồm gắn kết tế bào, chuyển tín hiệu vào tế bào và bảo vệ tế bào không bị phá hủy.
Đột biến gây bệnh
Tiểu ra máu ban đêm
Các đột biến gen PIGT gây ra một bệnh lý hiếm gặp ảnh hưởng đến các tế bào máu được gọi là tiểu ra máu ban đêm (Paroxysmal Nocturnal Hemoglobinuria - PNH). Người bệnh tiểu ra máu (hemoglobin niệu) do các tế bào hồng cầu chết đi cùng với bất thường các tế bào máu khác. Ngoài ra, người bệnh còn gặp tình trạng viêm bất thường có thể dẫn đến viêm màng não vô trùng tái phát (viêm màng bao quanh não và tủy sống không phải do nhiễm trùng), phát ban đỏ, ngứa (phát ban hoặc mề đay), đau khớp hoặc viêm ruột.
Người bệnh mang một đột biến trong một bản sao của gen PIGT. Đột biến này được xếp là đột biến dòng mầm bởi vì nó hiện diện trong mọi tế bào của cơ thể. Đột biến thứ hai phát sinh trong quá trình sống của người bệnh, nó xóa bản sao bình thường khác của gen PIGT. Đột biến thứ hai được xếp là đột biến soma, nó xảy ra trong tế bào gốc tạo máu. Đột biến (biến thể) này chỉ xuất hiện trong tế bào gốc tạo máu và các tế bào máu được tạo ra từ tế bào đó. Cùng với nhau, các đột biến gen PIGT khiến protein PIG-T suy giảm hoạt động hoặc không còn chức năng. Do đó, neo GPI không được gắn vào các protein bên trong tế bào, thay vào đó chúng tồn tại trên bề mặt của tế bào. Tế bào bị thiếu một số protein trên bề mặt nên không thể thực hiện vài chức năng bao gồm bảo vệ hồng cầu không bị phá vỡ. Các tế bào hồng cầu bị phá hủy sớm dẫn đến tình trạng thiếu hồng cầu (thiếu máu tán huyết) và tiểu ra máu.
Neo GPI không có protein đính kèm sẽ kích hoạt tình trạng viêm, dẫn đến các đặc điểm viêm của bệnh.
Xem thêm Tiểu ra máu ban đêmCác vấn đề khác
Các biến thể trong gen PIGT cũng gây ra một bệnh lý hiếm gặp được gọi là hội chứng đa dị tật bẩm sinh-hạ huyết áp-co giật 3 (multiple congenital anomalies-hypotonia-seizures syndrome 3). Người bệnh chậm phát triển, co giật, yếu cơ, khuôn mặt dị biệt và những bất thường bẩm sinh liên quan đến tim, xương, hệ tiết niệu hoặc hệ tiêu hóa.
Người bệnh thừa hưởng hai bản sao gen PIGT đột biến, mỗi bản sao từ bố hoặc mẹ. Các biến thể làm suy giảm hoạt động của protein PIG-T, giảm mức độ protein gắn vào bề mặt tế bào bằng các neo GPI. Thiếu protein quan trọng cho sự phát triển trên bề mặt tế bào dường như làm suy yếu quá trình phát triển bình thường của nhiều hệ thống cơ thể, dẫn đến các dấu hiệu và triệu chứng đa dạng của hội chứng đa dị tật bẩm sinh-hạ huyết áp-co giật 3.
Các tên gọi khác
- CGI-06
- MCAHS3
- NDAP
- neuronal development-associated protein
- phosphatidylinositol glycan, class T
- PNH2
Tài liệu tham khảo
- Genetic Testing Information. PIGT phosphatidylinositol glycan anchor biosynthesis class T [Homo sapiens (human)]. Retrieved June 30, 2023 from https://www.ncbi.nlm.nih.gov/gene/51604/
- Catalog of Genes and Diseases from OMIM. PHOSPHATIDYLINOSITOL GLYCAN ANCHOR BIOSYNTHESIS CLASS T PROTEIN; PIGT . Retrieved June 30, 2023 from https://omim.org/entry/610272
- National Library of Medicine. PIGT gene. Retrieved June 30, 2023 from https://medlineplus.gov/genetics/gene/pigt/