Bệnh đậu mùa khỉ
Bệnh đậu mùa khỉ là bệnh lây truyền từ động vật do virus đậu mùa khỉ gây ra, tương tự như bệnh đậu mùa. Chúng được tìm thấy chủ yếu ở các nước Châu Phi và một số khu vực khác trên thế giới. Triệu chứng bệnh giống như cảm cúm, phát ban và nổi mụn mủ trong vài tuần. Hiện chưa có phương pháp nào được chứng minh điều trị bệnh hiệu quả, hầu hết người bệnh thường tự khỏi.
Ảnh: Hình ảnh tổn thương da ở người mắc bệnh đậu mùa khỉ
Nguồn: Scientific American
Biểu hiện lâm sàng
Thời gian ủ bệnh thường khoảng 6-13 ngày, đôi khi 5-21 ngày.
Giai đoạn nhiễm bệnh có thể chia làm hai giai đoạn:
- Giai đoạn xâm lấn (kéo dài từ 0–5 ngày) đặc trưng bởi các triệu chứng bao gồm sốt, nhức đầu, sưng hạch, đau lưng, đau cơ và suy nhược cơ thể. Nổi hạch là đặc điểm khác biệt của bệnh đậu mùa khỉ so với các bệnh khác có có triệu chứng khởi phát tương tự (bệnh thủy đậu, bệnh sởi, bệnh đậu mùa).
- Từ 1-3 ngày sau khi sốt, bắt đầu xuất hiện mụn mủ , có xu hướng tập trung nhiều hơn ở mặt (95% trường hợp) và tứ chi (lòng bàn tay và bàn chân) hơn là ở thân. Một vài trường hợp, mụn mủ xuất hiện trong niêm mạc miệng, cơ quan sinh dục và giác mạc. Mụn có mủ tiến triển tuần tự từ dát (tổn thương có nền phẳng) đến sẩn (tổn thương cứng hơi nhô cao), mụn nước (tổn thương chứa đầy dịch trong), mụn mủ (tổn thương chứa đầy dịch vàng), và đóng vảy khô và bong ra. Số lượng tổn thương có thể từ vài đến vài nghìn. Trong một số trường hợp nghiêm trọng, các tổn thương liên kết với nhau hình thành các mảng da lớn bong ra.
Thực tế, nhiều trường hợp mắc bệnh hiện nay không xuất hiện triệu chứng đặc trưng của bệnh. Người bệnh chỉ có một vài tổn thương trên da, không sưng hạch bạch huyết, không sốt. Đôi khi, bệnh nhân có những triệu chứng của bệnh nhưng không rõ ràng. Lúc này, họ vẫn có khả năng truyền bệnh cho những người tiếp xúc gần trong thời gian dài.
Bệnh đậu mùa khỉ thường kéo dài từ 2-4 tuần. Các trường hợp bệnh nghiêm trọng thường gặp ở trẻ em, mức độ phơi nhiễm virus cao và phụ thuộc vào loại biến chủng virus mắc phải. Người suy giảm hệ miễn dịch làm tăng nguy cơ phát triển biến chứng.
Trước đây, chiến dịch tiêm vắc xin phòng bệnh đậu mùa có tác dụng bảo vệ nhưng ngày nay những người dưới 40 đến 50 tuổi (tùy theo quốc gia) có thể dễ bị bệnh đậu mùa hơn do các chiến dịch tiêm phòng đậu mùa trên toàn cầu đã giảm sau khi đẩy lùi dịch bệnh. Biến chứng của bệnh đậu mùa khỉ có thể bao gồm nhiễm trùng thứ phát, viêm phế quản, nhiễm trùng huyết, viêm não và nhiễm trùng giác mạc kèm theo giảm thị lực. Theo thống kê hiện nay, tỷ lệ tử vong dao động trong khoảng 3-6%.
Độ phổ biến
Hiện nay, bệnh đậu mùa khỉ đang tiến triển phức tạp, có nguy cơ bùng nổ thành dịch bệnh. Theo thống kê của Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh (Hoa Kỳ), tính đến ngày 29 tháng 7 năm 2022:
- Các nước Châu Phi: 344 ca
- Các khu vực khác (72 quốc gia) chưa từng có ca nhiễm: 22.141 ca
Bệnh đậu mùa khỉ chủ yếu xảy ra ở châu Phi. Vào đầu năm 2003, đợt bùng phát bệnh đậu mùa khỉ đầu tiên đã xảy ra ở Hoa Kỳ. Một lô hàng động vật bị nhiễm bệnh từ Ghana nhập khẩu vào Texas. Các loài gặm nhấm bị nhiễm bệnh đã lây lan virus sang những con chó nuôi trên đồng cỏ, sau đó đã lây nhiễm virus cho 47 người ở Trung Tây.
Du lịch quốc tế ngày càng phổ biến, do đó tạo điều kiện cho các loại virus dễ dàng lây lan khắp thế giới. Giữa năm 2021, một cư dân Hoa Kỳ mắc bệnh đậu mùa khỉ được phát hiện sau khi đi du lịch Nigeria. Sau đó, năm 2022 bùng phát dịch ra các khu vực bên ngoài Châu Phi, bao gồm Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Úc.
Bệnh có thể bắt gặp ở bất kỳ độ tuổi nào. Ở Châu Phi, hầu hết các trường hợp mắc bệnh dưới 15 tuổi. Ở các nước khác, dịch bệnh xuất hiện chủ yếu ở nam giới có quan hệ tình dục với người đồng giới và nhiều trường hợp không thuộc nhóm này.
Nguyên nhân
Tác nhân gây bệnh là virus đậu mùa khỉ - loại virus ADN sợi đôi có vỏ bọc, thuộc chi Orthopoxvirus, họ Poxviridae. Chúng có hai biến thể, bao gồm biến thể ở Trung Phi (lưu vực Congo) và biến thể ở Tây Phi.
Chẩn đoán
Nếu nghi ngờ mắc bệnh đậu mùa khỉ, tiến hành lấy mẫu mô từ vết loét hoặc mẫu máu người bệnh thực hiện phản ứng PCR kiểm tra virus đậu mùa khỉ hoặc các kháng thể mà hệ thống người bệnh tạo ra. Cần lưu ý, khi bệnh bắt đầu biểu hiện triệu chứng, nồng độ virus máu có thể giảm hoặc không còn virus tồn tại trong máu, lúc này phản ứng PCR có thể cho kết quả âm tính giả.
Virus Orthopox có phản ứng chéo về mặt huyết thanh. Phản ứng chéo là khả năng một hoặc nhiều vị trí kháng thể có thể kết hợp với hơn một kháng nguyên. Do đó, phương pháp phát hiện kháng nguyên và kháng thể không đặc hiệu đối với bệnh đậu mùa khỉ. Ngoài ra, việc tiêm phòng vắc-xin (bệnh đậu mùa hoặc nhân viên phòng thí nghiệm tiếp xúc với virus orthopox) có thể dẫn đến dương tính giả.
Để kết quả xét nghiệm chính xác, bệnh nhân cần cung cấp mẫu bệnh phẩm cùng các thông tin, bao gồm:
- Ngày bắt đầu sốt
- Ngày bắt đầu phát ban
- Ngày lấy mẫu
- Tình trạng sức khỏe (tại giai đoạn phát ban)
- Tuổi
Chẩn đoán phân biệt
Chẩn đoán lâm sàng phân biệt các bệnh phát ban khác, bao gồm bệnh thủy đậu, bệnh sởi, nhiễm trùng da do vi khuẩn, bệnh ghẻ, bệnh giang mai và dị ứng do thuốc. Nổi hạch trong giai đoạn tiền căn của bệnh là đặc điểm lâm sàng phân biệt bệnh đậu mùa khỉ với bệnh thủy đậu hoặc bệnh đậu mùa.
Bệnh đậu mùa khỉ & bệnh thủy đậu
Cả hai bệnh đều có dấu hiệu đặc trưng là phát ban, có thể lây lan khi tiếp xúc trực tiếp với mầm bệnh hoặc đường hô hấp. Ngoài ra còn có một số đặc điểm khác, bao gồm:
- Virus gây ra bệnh đậu mùa khỉ thuộc họ virus Poxviridae và virus gây bệnh thủy đậu thuộc họ virus Herpes.
- Bệnh nhân mắc bệnh đậu mùa khỉ thường sưng hạch bạch huyết.
- Cơ chế phát ban khác nhau: người mắc bệnh thủy đậu, phát ban và phát triển thành mụn mủ theo từng đợt trong khoảng hai tuần, nhưng người mắc bệnh đậu mùa khỉ chỉ biểu hiện triệu chứng này một lần và thường kéo dài lâu hơn, từ 2-4 tuần.
Bệnh đậu mùa khỉ & bệnh đậu mùa
Virus gây bệnh của hai bệnh khác nhau nhưng thuộc cùng chi virus Orthopoxvirus. Biểu hiện lâm sàng của bệnh đậu mùa khỉ tương tự như bệnh đậu mùa. Bệnh đậu mùa dễ lây lan và biểu hiện triệu chứng nghiêm trọng hơn đậu mùa khỉ với tỷ lệ tử vong khoảng 30%. Năm 1980, vacxin bệnh đậu mùa ra đời đã giúp ngăn chặn dịch bệnh trên toàn cầu.
Trong khi bệnh đậu mùa không còn xảy ra một cách tự nhiên, ngành y tế toàn cầu vẫn cảnh giác trong trường hợp bệnh đậu mùa có thể xuất hiện trở lại thông qua cơ chế tự nhiên, tai nạn trong phòng thí nghiệm. Để đảm bảo sự sẵn sàng cho toàn cầu trong trường hợp bệnh đậu mùa tái xuất hiện, các loại vắc-xin, chẩn đoán và thuốc kháng vi-rút mới hơn đang được phát triển, đồng thời có thể giúp phòng ngừa và kiểm soát bệnh đậu mùa khỉ.
Điều trị
Hiện nay, các phương pháp điều trị kháng virus chưa được phê duyệt. Người mắc bệnh đậu mùa khỉ hầu hết tự khỏi mà không cần điều trị với các triệu chứng kéo dài từ hai đến bốn tuần. Sau khi được chẩn đoán, bệnh nhân được theo dõi nhằm giảm các triệu chứng, ngăn ngừa mất nước và dùng thuốc kháng sinh điều trị các bệnh nhiễm trùng thứ phát nếu chúng phát triển.
Con đường lây truyền
Bệnh đậu mùa khỉ là bệnh di truyền, do đó bệnh dễ lây lan khi tiếp xúc gần với mức độ thường xuyên, bao gồm:
- Tiếp xúc trực tiếp với nốt ban, vảy hoặc chất dịch cơ thể của người mắc bệnh đậu mùa ở khỉ.
- Chạm vào đồ vật, vải (quần áo, ga giường hoặc khăn tắm) và các bề mặt đã được người bị bệnh đậu mùa khỉ sử dụng.
- Tiếp xúc với dịch tiết đường hô hấp của người bệnh
- Quan hệ tình dục không an toàn
Bà mẹ mang thai có thể truyền virus sang thai nhi qua nhau thai.
Người ta đang nghiên cứu thêm về khả năng lây truyền bệnh qua một số loại dịch tiết khác của cơ thể người bệnh như tinh dịch, dịch âm đạo.
Phòng ngừa
Nâng cao nhận thức về các yếu tố nguy cơ và giáo dục mọi người biện pháp nhằm giảm phơi nhiễm với vi rút là chiến lược phòng ngừa chính đối với bệnh đậu mùa ở khỉ. Các nghiên cứu tiến hành để đánh giá tính mức độ khả thi và thích hợp của tiêm vắc-xin phòng ngừa và kiểm soát bệnh đậu mùa khỉ. Một số quốc gia đã hoặc đang phát triển chính sách cung cấp vắc xin cho những người có nguy cơ cao mắc bệnh như nhân viên phòng thí nghiệm, đội phản ứng nhanh và nhân viên y tế.
Giảm nguy cơ lây truyền từ người sang người
Giám sát và xác định nhanh các ca bệnh mới nhằm ngăn chặn ổ dịch kịp thời. Trong các đợt bùng phát bệnh đậu mùa khỉ, tiếp xúc gần với người bệnh là yếu tố nguy cơ đáng kể nhất đối với vấn đề lây nhiễm vi rút đậu mùa khỉ. Nhân viên y tế và các thành viên trong gia đình có nguy cơ lây nhiễm cao. Nhân viên y tế chăm sóc bệnh nhân nghi ngờ hoặc đã chẩn đoán nhiễm vi rút đậu mùa khỉ hoặc xử lý bệnh phẩm từ họ nên thực hiện các biện pháp phòng ngừa kiểm soát nhiễm trùng tiêu chuẩn. Nếu có thể nên chọn những người đã được tiêm phòng đậu mùa trước đó để chăm sóc bệnh nhân.
Mẫu bệnh phẩm lấy từ người và động vật nghi nhiễm vi rút đậu mùa khỉ cần được xử lý bởi nhân viên đã qua đào tạo làm việc trong phòng thí nghiệm được trang bị phù hợp. Bệnh phẩm của bệnh nhân phải được đóng gói và vận chuyển theo hướng dẫn của WHO về vận chuyển chất lây nhiễm.
Hạn chế du lịch và lưu trú tại các khu vực đã ghi nhận có ca dương tính với virus đậu mùa khỉ.
Giảm nguy cơ lây truyền từ động vật sang người
Hầu hết các bệnh nhiễm trùng ở người do lây truyền từ động vật. Tránh tiếp xúc với động vật hoang dã, đặc biệt động vật ốm hoặc chết, kể cả thịt, máu và các bộ phận khác của chúng. Ngoài ra, các loại thực phẩm có thịt hoặc các bộ phận của động vật phải được nấu chín kỹ trước khi ăn.
Ngăn ngừa bệnh đậu mùa khỉ thông qua hạn chế buôn bán động vật
Một số quốc gia đã đưa ra quy định hạn chế nhập khẩu các loài gặm nhấm và các loài linh trưởng. Các động vật nuôi có khả năng bị nhiễm bệnh đậu mùa khỉ nên được cách ly khỏi các động vật khác và đưa vào khu vực kiểm dịch. Bất kỳ động vật nào có thể đã tiếp xúc với động vật bị nhiễm bệnh phải được cách ly, xử lý với biện pháp phòng ngừa tiêu chuẩn và theo dõi triệu chứng bệnh đậu mùa khỉ trong 30 ngày.
Tiêm phòng
Vắc xin bệnh đậu mùa đã được kiểm chứng có hiệu quả khoảng 85% ngăn ngừa bệnh đậu mùa khỉ. Do đó, tiêm phòng đậu mùa trước có thể làm bệnh nhẹ hơn. Người tiêm phòng bệnh đậu mùa thường có một vết sẹo trên cánh tay. Vắc xin đậu mùa và đậu mùa khỉ được phát triển theo công thức dựa khả năng phản ứng chéo của vi rút orthopoxvirus.
Một số biện pháp khác
- Rửa tay thường xuyên bằng nước và xà phòng
- Che miệng khi ho hoặc hắc xì
- Quan hệ tình dục an toàn, sử dụng bao cao su
- Đeo khẩu trang ở nơi đông người
- Làm sạch và khử trùng bề mặt vật dụng thường xuyên chạm vào
- Sử dụng đồ bảo hộ khi chăm sóc người bệnh
Các tên gọi khác
- Monkeypox
References
- Cleveland Clinic. Monkeypox. Retrieved July 31, 2022 from https://my.clevelandclinic.org/health/diseases/22371-monkeypox
- Center for Disease Control and Prevention. Monkeypox. Retrieved July 31, 2022 from https://www.cdc.gov/poxvirus/monkeypox/response/2022/world-map.html
- National Library of Medicine. Monkeypox. Retrieved July 31, 2022 from https://medlineplus.gov/ency/article/007783.htm
- Center for Disease Control and Prevention. How it spreads. Retrieved July 31, 2022 from https://www.cdc.gov/poxvirus/monkeypox/transmission.html
- Center for Disease Control and Prevention.Vaccines. Retrieved July 31, 2022 from https://www.cdc.gov/poxvirus/monkeypox/vaccines.html
- World Health Organization. Monkeypox. Retrieved July 31, 2022 from https://www.who.int/news-room/fact-sheets/detail/monkeypox#
- National Health Service. Monkeypox. Retrieved July 31, 2022 from https://www.nhs.uk/conditions/monkeypox/
- Michigan Department of Health & Human Service. MPV (Monkeypox). Retrieved July 31, 2022 from https://www.michigan.gov/mdhhs/keep-mi-healthy/communicablediseases/diseasesandimmunization/mpv
- California Department Public Health. Monkeypox. Retrieved July 31, 2022 from https://www.cdph.ca.gov/Programs/CID/DCDC/Pages/Monkeypox.aspx
- Merck Manual. Monkeypox. Retrieved July 31, 2022 from https://www.merckmanuals.com/home/infections/pox-viruses/monkeypox