Bệnh tế bào mast hệ thống
Bệnh tế bào mast hệ thống (systemic mastocytosis) là một bệnh lí về máu nghiêm trọng do các tế bào mast hoạt động quá mức. Tế bào mast tiết ra các chất trung gian có tác dụng huy động bạch cầu, co thắt cơ trơn và tăng sản xuất chất nhầy. Trên những người mắc bệnh tế bào mast hệ thống, hệ miễn dịch kích hoạt các tế bào mast không thích hợp khiến chúng giải phóng quá nhiều chất trung gian dẫn đến các phản ứng dị ứng nghiêm trọng ảnh hưởng đến nhiều bộ phận của cơ thể. Các dấu hiệu và triệu chứng bệnh có thể xuất hiện tại mọi lứa tuổi, nhưng phổ biến nhất sau tuổi vị thành niên.
Triệu chứng
Các dấu hiệu và triệu chứng chung của bệnh tế bào mast hệ thống thường bao gồm:
- Mệt mỏi cực độ
- Đỏ và nóng da
- Buồn nôn
- Đau bụng, đầy hơi và tiêu chảy
- Trào ngược axit dạ dày, thực quản
- Nghẹt mũi và khó thở
- Huyết áp thấp
- Choáng váng và đau đầu
Ảnh: Bệnh trào ngược dạ dày thực quản
Nguồn: Designua/Shutterstock.com
Một số người mắc bệnh tế bào mast hệ thống có xu hướng lo lắng, trầm cảm hoặc gặp các vấn đề chú ý và trí nhớ. Bệnh nhân cũng có thể xuất hiện bệnh mề đay sắc tố (urticaria pigmentosa) với các đốm da có màu nâu, ngứa rát khi tiếp xúc hoặc thay đổi nhiệt độ. Người ta ghi nhận gần một nửa số người mắc bệnh tế bào mast hệ thống gặp phải các phản ứng dị ứng nghiêm trọng (sốc phản vệ).
Bệnh tế bào mast hệ thống được phân thành 5 loại dựa theo mức độ nghiêm trọng và triệu chứng. Các bệnh tế bào mast hệ thống dạng nhẹ thường không ảnh hưởng đến tuổi thọ người bệnh, trong khi người mắc dạng nghiêm trọng hơn thường chỉ sống được vài tháng hoặc vài năm sau khi được chẩn đoán.
Dạng nhẹ
Các dạng nhẹ nhất của tế bào mast hệ thống là dạng không hoạt động (indolent systemic mastocytosis) và dạng tiến triển âm thầm (smouldering systemic mastocytosis). Trong đó, dạng không hoạt động là loại phổ biến nhất của bệnh tế bào mast hệ thống. Người mắc bệnh dạng nhẹ thường chỉ có dấu hiệu và triệu chứng chung của tế bào mast hệ thống. Bệnh dạng tiến triển âm thầm có thể ảnh hưởng đến nhiều cơ quan và gây nên các triệu chứng nghiêm trọng hơn so với dạng không hoạt động.
Dạng nặng
Các dạng nghiêm trọng hơn bao gồm bệnh tế bào mast hệ thống tiến triển nhanh (aggressive systemic mastocytosis), bệnh tế bào mast hệ thống liên quan đến khối u tế bào máu (systemic mastocytosis with an associated hematologic neoplasm) và bệnh bạch cầu tế bào mast (mast cell leukemia). Trong số các dạng này, bệnh bạch cầu tế bào mast là dạng hiếm và nghiêm trọng nhất. Ngoài các dấu hiệu và triệu chứng chung của bệnh tế bào mast hệ thống, các dạng nghiêm trọng thường làm giảm chức năng của một cơ quan như gan, lá lách hoặc hạch bạch huyết. Những rối loạn chức năng này khiến chất lỏng tích tụ bất thường trong ổ bụng, từ đó gây ra cổ trướng. Bệnh tế bào mast hệ thống tiến triển nhanh thường gây ra các vấn đề về loãng xương, giảm mật độ xương và gãy đa xương. Cả hai bệnh tế bào mast hệ thống liên quan đến khối u tế bào máu và bệnh bạch cầu tế bào mast đều gây ra các rối loạn hoặc ung thư tế bào máu.
Độ phổ biến
Người ta ước tính tỉ lệ mắc tế bào mast hệ thống khoảng 1/10.000–20.000 người trên toàn thế giới.
Nguyên nhân
Trong phần lớn các trường hợp, đột biến gen KIT gây ra bệnh tế bào tế bào mast hệ thống. Gen KIT cung cấp hướng dẫn tạo ra một loại protein có khả năng kích thích đường tín hiệu hóa học, từ đó thúc đẩy nhiều loại tế bào (bao gồm cả tế bào mast) tăng sinh và phân chia.
Trong bệnh tế bào mast hệ thống, các đột biến gen KIT là đột biến soma, chúng phát sinh trong quá trình sống và không có tính di truyền. Đột biến gen KIT khiến protein luôn được kích hoạt dẫn đến các đường tín hiệu hoạt động quá mức, do đó tế bào mast tăng sinh và tích tụ bất thường trong một hoặc nhiều mô.
Thông thường, các tế bào mast tích tụ trong tủy xương hoặc các mô khác như đường tiêu hóa, hạch bạch huyết, lá lách hoặc gan. Khi tác nhân dị ứng từ môi trường xâm nhập vào cơ thể, các tế bào mast thường gây ra phản ứng viêm nhằm bảo vệ cơ thể chống lại mầm bệnh và chất gây dị ứng. Nếu tế bào mast tích tụ quá mức, chúng giải phóng nhiều chất trung gian (đặc biệt histamine) vào mô, từ đó tăng cường đáp ứng miễn dịch. Các tác nhân có thể kích hoạt tế bào mast bao gồm thay đổi nhiệt độ, ma sát, chấn thương nhẹ, phẫu thuật, vết côn trùng đốt, vaccine, lo lắng và căng thẳng. Một số loại thuốc cũng có thể kích thích bao gồm aspirin, thuốc phiện hoặc thuốc chống viêm không steroid (NSAID).
Một số đột biến gen khác có thể khiến bệnh nghiêm trọng hơn và rút ngắn tuổi thọ bệnh nhân. Các gen này chủ yếu kiểm soát quá trình phân chia của tế bào hoặc điều chỉnh hoạt động của nhiều gen quan trọng trong giai đoạn phát triển.
Chẩn đoán
Bác sĩ thường chẩn đoán bệnh tế bào mast hệ thống bằng sinh thiết tủy xương nhằm xác định số lượng và hình dạng bất thường của tế bào mast. Ngoài ra, một phương pháp khác là đo nồng độ tryptase (alpha tryptase và beta tryptase) trong huyết thanh. Tế bào mast tiết alpha tryptase vào máu, do đó phương pháp đo nồng độ alpha tryptase trong máu phản ánh số lượng tế bào hiện diện trong cơ thể. Ngoài ra, beta tryptase được lưu trữ trong tế bào mast, chúng được giải phóng khi xảy ra sốc phản vệ, do đó phương pháp đo nồng độ beta tryptase máu giúp đánh giá mức độ kích hoạt tế bào. Bác sĩ cũng có thể chỉ định bệnh nhân thực hiện xét nghiệm di truyền nhằm xác nhận kết quả chẩn đoán thông qua phát hiện đột biến gen KIT.
Điều trị
Hiện tại, người ta chưa tìm ra phương pháp điều trị hoàn toàn bệnh tế bào mast hệ thống. Các liệu pháp chủ yếu hướng đến giảm nhẹ triệu chứng và cải thiện chất lượng đời sống bệnh nhân. Trong trường hợp bệnh nhân xảy ra phản ứng sốc tự vệ, bác sĩ thường chỉ định sử dụng thuốc kháng histamine.
Ngoài ra, tùy thuộc vào triệu chứng cụ thể, bệnh nhân có thể sử dụng một số loại thuốc hoặc liệu pháp khác bao gồm:
- Cromolyn natri: đặc biệt hiệu quả trong điều trị một số triệu chứng về đường tiêu hóa
- Thuốc đối kháng leukotriene: có tác dụng cải thiện triệu chứng
- Thuốc ức chế bơm proton: điều trị tăng sản xuất axit trong dạ dày
- Bisphosphonates: chữa loãng xương hoặc giảm mật độ xương
- PUVA (psoralen cộng với tia cực tím A): có thể làm suy giảm tạm thời các tổn thương mề đay sắc tố
- Glucocorticoids: dùng cho những bệnh nhân không đáp ứng với liệu pháp thông thường hoặc trong trường hợp bệnh nghiêm trọng
Bác sĩ thường kê đơn epinephrine tự tiêm cho bệnh nhân nhằm ngăn chặn kịp thời các đợt sốc phản vệ nghiêm trọng. Bệnh nhân cũng được khuyến nghị mang theo dụng cụ tự tiêm epinephrine bên cạnh nhằm phòng ngừa cơn sốc đột ngột. Mặt khác, xolair hay omalizumab cũng được chứng minh tính hiệu quả trong ngăn ngừa các đợt sốc phản vệ do tế bào mast gây ra.
Đối với những bệnh nhân mắc tế bào mast hệ thống dạng nặng, bác sĩ có thể xem xét chỉ định một số liệu pháp nhằm giảm số lượng tế bào mast. Các liệu pháp này bao gồm sử dụng chất ức chế tyrosine kinase (TKIs), cladribine và interferon alpha. Chất ức chế tyrosine kinase thường là phương pháp điều trị ưu tiên do tính an toàn cao và khả năng dung nạp tốt. Ngoài ra, ghép tế bào gốc có thể được xem xét thực hiện trên những bệnh nhân mắc tế bào mast hệ thống dạng tiến triển nhanh, liên quan đến khối u tế bào máu và bệnh bạch cầu tế bào mast.
Gần đây, cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã cấp phép sử dụng thuốc trị ung thư Gleevec (imatinib mesylate) trong điều trị một số trường hợp mắc bệnh tế bào mast hệ thống tiến triển nhanh. FDA cũng đã phê duyệt Rydapt (midostaurin) và Ayvakit (avapritinib) trong điều trị cho người lớn mắc tế bào mast hệ thống dạng tiến triển nhanh, liên quan đến khối u tế bào máu hoặc bạch cầu tế bào mast.
Lời kết
Bệnh tế bào mast hệ thống là một rối loạn máu hiếm gặp do tế bào mast tăng sinh bất thường và tích tụ nhiều trong mô. Tế bào này hoạt động quá mức làm tăng cường phản ứng miễn dịch và ảnh hưởng đến da cũng như các cơ quan khác. Bệnh tế bào mast hệ thống thường do các đột biến phát sinh trong quá trình sống, do đó đây không phải là bệnh di truyền. Hiện nay, người ta vẫn chưa tìm ra phương pháp điều trị dứt điểm bệnh, những liệu pháp chủ yếu hướng đến giảm nhẹ những triệu chứng cụ thể trên mỗi bệnh nhân.
References
- Genetic Testing Information. Systemic mast cell disease. Retrieved January 23, 2024 from https://www.ncbi.nlm.nih.gov/gtr/conditions/C0221013/
- Genetic and Rare Diseases Information Center. Systemic mastocytosis. Retrieved January 23, 2024 from https://rarediseases.info.nih.gov/diseases/8616/systemic-mastocytosis
- Catalog of Genes and Diseases from OMIM. MASTOCYTOSIS, CUTANEOUS; MASTC. Retrieved January 23, 2024 from https://omim.org/entry/154800
- National Library of Medicine. Systemic Mastocytosis. Retrieved January 23, 2024 from https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK544345/
- Cleveland Clinic. Systemic Mastocytosis. Retrieved January 23, 2024 from https://my.clevelandclinic.org/health/diseases/24386-systemic-mastocytosis
- MedlinePlus. Systemic mastocytosis. Retrieved January 23, 2024 from https://www.google.com/url?q=https://medlineplus.gov/genetics/condition/systemic-mastocytosis/
- National Organization for Rare Disorders. Mastocytosis. Retrieved January 23, 2024 from https://rarediseases.org/rare-diseases/mastocytosis/