Các loại bệnh glaucoma phổ biến
Glaucoma xảy ra do áp lực bên trong của mắt (áp lực nội nhãn hay “IOP”) tăng. IOP bình thường nằm trong khoảng từ 12–22 mmHg (milimét thủy ngân). Nếu áp lực này duy trì với mức độ quá cao trong thời gian dài có thể dẫn đến mất thị lực vĩnh viễn.
Áp lực nội nhãn phụ thuộc vào độ cân bằng giữa lượng thủy dịch được tạo thành và thoát ra khỏi mắt. Khi thể mi nằm sau mống mắt (nơi sản xuất thủy dịch) hoạt động bình thường và các kênh thoát thủy dịch không bị tắc nghẽn, áp lực mắt được duy trì trong mức cho phép.
Glaucoma được chia thành hai nhóm lớn gồm glaucoma nguyên phát và glaucoma thứ phát. Mỗi nhóm lớn đều chứa nhiều nhóm nhỏ khác nhau, tổng cộng gồm tám loại glaucoma. Các loại bệnh glaucoma khác nhau có thể ảnh hưởng đến thị lực một bên mắt hoặc cả hai mắt. Tuy nhiên, chúng đều làm tăng áp lực nội nhãn.
Ảnh: Cấu trúc của mắt
Nguồn: Terese Winslow
Glaucoma nguyên phát (primary glaucomas)
Glaucoma nguyên phát (glaucoma mãn tính) có nguyên nhân từ quá trình dẫn lưu thủy dịch trong mắt diễn ra bất thường nên thủy dịch không thoát được. Do đó, áp lực nội nhãn ăng lên đến mức có thể làm hỏng dây thần kinh thị giác. Trong giai đoạn đầu, người bệnh không xuất hiện triệu chứng rõ ràng, nên bác sĩ khó chẩn đoán và điều trị bệnh.
Nhóm glaucoma nguyên phát bao gồm các dạng sau.
Glaucoma góc mở (open-angle glaucoma)
Đây là dạng glaucoma phổ biến nhất. Bệnh glaucoma góc mở xảy ra khi các kênh dẫn lưu mở bình thường nhưng thủy dịch không thoát ra đúng cách. Lượng thủy dịch thoát ra chậm hơn so với lượng thể mi sản xuất. Thủy dịch không thoát kịp mà ứ đọng lại rồi làm tăng áp lực mắt theo thời gian. Bởi vì bệnh tiến triển chậm và thường không có triệu chứng nên bệnh được xem là “kẻ thù thầm lặng” gây suy giảm thị lực.
Glaucoma góc đóng (angle-closure glaucoma)
Dạng này có tên khác là glaucoma cấp tính do áp lực mắt thường tăng lên nhanh chóng. Khác với glaucoma góc mở, glaucoma góc đóng khởi phát khi góc giữa mống mắt và giác mạc quá hẹp—xảy ra trong trường hợp đồng tử giãn ra đột ngột. Do đó, các kênh dẫn lưu bị chặn nên thủy dịch không thể thoát ra ngoài. Thủy dịch tắc nghẽn khiến áp lực mắt nhanh chóng tăng lên. Nếu không được điều trị kịp thời, glaucoma góc đóng có thể gây mù chỉ sau vài ngày.
Triệu chứng của glaucoma góc đóng bao gồm:
- Nhức đầu
- Buồn nôn
- Đau và đỏ mắt
- Nhìn mờ
- Thấy quầng xanh đỏ như cầu vồng xung quanh ánh đèn
Glaucoma nhãn áp bình thường (normal-tension glaucoma)
Đối với glaucoma nhãn áp bình thường, bệnh nhân bị tổn thương dây thần kinh thị giác tương tự như glaucoma góc mở. Tuy nhiên áp lực mắt không tăng lên, chỉ số nhãn áp của họ nằm trong phạm vi trung bình (từ 12–21mm Hg). Người ta vẫn đang tìm hiểu thêm về cơ chế hoạt động của bệnh.
Các yếu tố có thể gây ra glaucoma nhãn áp bình thường:
- Cấu trúc mô thần kinh thị giác yếu
- Lưu lượng máu đến dây thần kinh thị giác khác thường
Bệnh phổ biến hơn trong cộng đồng người Á hoặc người Mỹ gốc Á. Ngoài ra, người có huyết áp thấp hoặc một số bệnh lý về tim cũng làm tăng nguy cơ mắc glaucoma nhãn áp bình thường.
Ảnh: Dây thần kinh sọ não
Nguồn: Alila Medical Media/Shutterstock.com
Glaucoma bẩm sinh (congenital glaucoma)
Bệnh glaucoma bẩm sinh xảy ra khi bất thường xuất hiệ trong quá trình hình thành hệ thống thủy dịch mắt của thai nhi. Bệnh được phân loại dựa trên độ tuổi khởi phát. Nếu bệnh khởi phát trong giai đoạn từ sơ sinh đến 3 tuổi, bệnh được gọi là glaucoma bẩm sinh. Bệnh nhân sau 3 tuổi được xếp vào nhóm glaucoma góc mở.
Theo thống kê tại Mỹ, tỉ lệ mắc glaucoma bẩm sinh khoảng 1/10.000 trẻ. Phần lớn bác sĩ chẩn đoán bệnh trong vòng một năm sau sinh, khi trẻ được 6 tháng tuổi.
Trẻ mắc glaucoma bẩm sinh có những biểu hiện như:
- Mắt to bất thường
- Chảy nước mắt nhiều
- Giác mạc đục
- Nhạy cảm với ánh sáng
Ngoài ra, một vài trường hợp trẻ bị glaucoma bẩm sinh do nhiều nguyên nhân thứ phát như chấn thương mắt và viêm, hoặc bệnh có thể xuát hiện sau khi phẫu thuật đục thủy tinh thể hoặc điều trị bằng steroid.
Ảnh: Giác mạc đục
Nguồn: Neoretina.com
Glaucoma thứ phát (secondary glaucoma)
Glaucoma thứ phát xảy ra chủ yếu do những tác nhân bên ngoài làm tăng áp lực nội nhãn như chấn thương mắt, bệnh lý về mắt, tiểu đường hoặc sử dụng steroid. Áp lực mắt tăng lên có thể gây tổn thương dây thần kinh thị giác, từ đó thị lực suy giảm.
Các dạng glaucoma thứ phát bao gồm
Glaucoma tân sinh mạch (neovascular glaucoma)
Bệnh glaucoma tân sinh mạch liên quan đến các bệnh lý làm giảm lưu lượng máu đến võng mạc—lớp màng nhạy cảm với ánh sáng nằm phía sau mắt. Khi không nhận đủ lưu lượng máu, võng mạc tạo ra yếu tố tăng trưởng nội mạc mạch máu, từ đó những mạch máu mới hình thành. Tuy nhiên, mạch máu mới này có thể bị rò rỉ rồi gây chảy máu, viêm nhiễm, sau đó để lại sẹo. Chúng cũng có thể phát triển sai vị trí, ví dụ như mạch máu mới hình thành ngay trên kênh thoát thủy dịch. Trong trường hợp này, thủy dịch trong mắt sẽ bị chặn và không thể thoát ra ngoài. Do đó, áp lực nội nhãn cao (IOP) tăng cao đến mức làm tổn thương dây thần kinh thị giác.
Người bệnh xuất hiện các dấu hiệu như:
- Đau và đỏ mắt
- Giảm thị lực
Thông thường, bệnh glaucoma tân sinh mạch không tự khởi phát và tồn tại đơn lẻ. Chúng xảy ra song song với các bệnh lý khác như tắc tĩnh mạch võng mạc, tăng huyết áp hoặc tiểu đường.
Glaucoma sắc tố (pigmentary glaucoma)
Màu sắc của mống mắt được quy định dựa trên số lượng và cách phân bố sắc tố (melanin). Đối với glaucoma sắc tố, sắc tố từ mống mắt bị bong tróc và kẹt trong ống dẫn lưu. Do đó, kênh thoát thủy dịch bị tắc nghẽn rồi áp lực trong mắt tăng lên. Theo thời gian, nhãn áp tăng cao đến mức gây tổn thương dây thần kinh thị giác, dẫn đến bệnh glaucoma sắc tố. Nếu không được điều trị kịp thời, bệnh nhân có thể bị mất thị lực rồi cuối cùng mù lòa.
Glaucoma sắc tố có thể được phát hiện khi khám mắt nhờ đặc điểm sắc tố hiện diện nhiều quá mức trong ống dẫn lưu và các vùng mất sắc tố tại mống mắt.
Glaucoma sắc tố chủ yếu xuất hiện tại nhóm đối tượng nam giới trẻ tuổi, da trắng và cận thị nặng. Nhãn áp thường tăng vọt khi người bệnh vận động thể chất, do đó họ sẽ có những biểu hiện như mờ mắt hoặc nhìn thấy quầng ánh sáng xanh đỏ như cầu vồng xung quanh ánh đèn.
Glaucoma giả tróc bao (exfoliation glaucoma)
Glaucoma giả tróc bao là một dạng glaucoma góc mở thứ phát phổ biến nhất trên thế giới. Bệnh thường tiến triển từ những người mắc hội chứng bong tróc (exfoliation syndrome). Hội chứng bong tróc khiến cơ thể sản sinh và tích tụ quá nhiều chất ngoại bào dạng sợi trong mô mắt. Do đó, mắt người bệnh xuất hiện những mảng trắng bám dọc theo rìa đồng tử.
Protein fibrin và albumin tích tụ bất thường trong các kênh thoát thủy dịch cũng như những cấu trúc khác của mắt. Hệ thống dẫn lưu không hoạt động được do bị chặn, áp lực mắt tăng đột ngột dẫn đến chỉ số nhãn áp cao hơn nhiều so với những dạng glaucoma khác. Do đó, quá trình điều trị glaucoma giả tróc bao gặp nhiều khó khăn vì tốc độ phát triển của bệnh không thể được kiểm soát.
Tỉ lệ mắc bệnh glaucoma giả tróc bao phổ biến hơn tại một số nhóm chủng tộc như người Nga, các nước Bắc Âu, Hy Lạp, Địa Trung Hải và người Ấn Độ. Di truyền cũng là một yếu tố làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Nếu trong gia đình có cha hoặc mẹ bị glaucoma giả tróc bao, con cái sẽ có khả năng mắc bệnh này.
Glaucoma màng bồ đào (uveitic glaucoma)
Glaucoma màng bồ đào là biến chứng của bệnh viêm màng bồ đào—một bệnh lý gây ra biểu hiện sưng và viêm mắt. Khoảng 2/10 người mắc bệnh viêm màng bồ đào sẽ tiến triển thành glaucoma màng bồ đào.
Viêm màng bồ đào tiết ra những mảnh nhỏ gây viêm, chúng cản trở hệ thống dẫn lưu từ đó làm giảm lượng thủy dịch thoát ra. Theo thời gian, các mảnh viêm này hình thành nên mô sẹo, các mô nàycó thể chặn hoặc làm hỏng kênh thoát thủy dịch, từ đó nhãn áp tăng lên rồi dẫn đến bệnh glaucoma màng bồ đào.
Ngoài ra, một số loại thuốc điều trị viêm màng bồ đào như steroid cũng có thể gây ra bệnh glaucoma màng bồ đào hoặc làm tăng tốc độ tiến triển của bệnh, bởi vì tác dụng phụ của steroid là tăng áp lực nội nhãn.
Glaucoma khác
Những bệnh lý khác như đục thủy tinh thể, chấn thương hoặc khối u tại mắt cũng có thể gây ra các dạng glaucoma thứ phát khác nhưng không phổ biến.
Lời kết
Glaucoma gồm hai nhóm lớn là glaucoma nguyên phát và glaucoma thứ phát. Mỗi nhóm lớn đều chứa nhiều nhóm nhỏ khác nhau, tổng cộng gồm tám loại glaucoma. Quá trình tiến triển bệnh tăng nhãn áp góc mở nguyên phát thường không có biểu hiện rõ ràng. Ban đầu, người bệnh sẽ mất thị lực bên (ngoại vi), sau đó lan dần đến thị lực trung tâm. Con người sử dụng thị lực trung tâm để lái xe, đọc sách và làm phần lớn các công việc khác trong cuộc sống. Do đó, người bệnh sẽ không phát hiện được hiện tượng suy giảm thị lực ngoại vi cho đến khi bệnh phát triển nghiêm trọng.
Vì vậy, kiểm tra mắt thường xuyên để phát hiện bệnh sớm là “chìa khóa vàng” để bảo vệ thị lực, nhất là sau độ tuổi 40. Những dấu hiệu sớm của bệnh và thay đổi thị lực thường bắt đầu xảy ra tại độ tuổi này. Nếu một cá nhân mắc bệnh tiểu đường, huyết áp cao hoặc có tiền sử gia đình mắc bệnh tăng nhãn áp, họ nên gặp bác sĩ nhãn khoa ngay để kiểm tra sức khỏe của mắt.
References
- Catalog of Genes and Diseases from OMIM. EXFOLIATION GLAUCOMA; XFG. Retrieved March 05, 2024 from https://www.omim.org/entry/177650
- U.S National Library of Medicine. PSEUDOEXFOLIATION GLAUCOMA; PEXG Retrieved March 05, 2024 from
- Cleveland Clinic. Angle-Closure Glaucoma. Retrieved March 05, 2024 from https://my.clevelandclinic.org/health/diseases/angle-closure-glaucoma
- Glaucoma Research Foundation Understand Your Glaucoma Diagnosis. Retrieved March 05, 2024 from https://glaucoma.org/articles/understand-your-glaucoma-diagnosis
- International Journal of Molecular Sciences Glaucoma. Retrieved March 05, 2024 from https://www.hopkinsmedicine.org/health/conditions-and-diseases/glaucoma
- Mayo Clinic. Angle-Closure Glaucoma. Retrieved March 05, 2024 from https://www.msdmanuals.com/professional/eye-disorders/glaucoma/angle-closure-glaucoma
- National Cancer Institute. Uveitis. Retrieved March 05, 2024 from https://www.nhs.uk/conditions/uveitis/
- National Health Service. Current Approach in the Diagnosis and Management of Uveitic Glaucoma. Retrieved March 05, 2024 from https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC4628996/