Hội chứng Alagille
Hội chứng Alagille là một bệnh di truyền có thể ảnh hưởng đến gan, tim và các bộ phận khác của cơ thể. Một trong những đặc điểm chính của hội chứng Alagille là gây tổn thương gan do bất thường trong ống mật. Các ống dẫn này mang mật (giúp tiêu hóa chất béo) từ gan đến túi mật và ruột non. Khi mắc hội chứng Alagille, người bệnh bị hẹp ống mật, dị dạng và giảm số lượng, dẫn đến mật tích tụ trong gan và gây ra sẹo gan khiến gan không thể hoạt động bình thường để loại bỏ chất thải ra khỏi máu. Gan tổn thương có thể gây vàng da và vàng mắt, ngứa da và tích tụ cholesterol dưới da.
Biểu hiện lâm sàng
Hội chứng Alagille cũng gây ra một số vấn đề về tim như suy giảm lưu lượng máu từ tim vào phổi (hẹp xung động). Hẹp xung động có thể xảy ra tại một lỗ giữa hai ngăn dưới của tim (thông liên thất) và có thể xuất hiện cùng với các bất thường khác của tim. Các dị tật tim này cùng xảy ra kết hợp với nhau được gọi là tứ chứng Fallot.
Những người mắc hội chứng Alagille có thể có các dị biệt trên khuôn mặt như trán rộng và dồ, mắt sâu và cằm nhọn, nhỏ. Bệnh cũng có thể gây ảnh hưởng đến các mạch máu trong não và tủy sống và thận. Người bệnh khi chụp X-quang có thể thấy hình bướm bất thường của xương cột sống.
Các vấn đề liên quan đến hội chứng Alagille thường trở nên rõ ràng ở trẻ sơ sinh hoặc trẻ nhỏ. Mức độ nghiêm trọng của bệnh khác nhau giữa các cá nhân bị ảnh hưởng, ngay cả trong cùng một gia đình. Các triệu chứng từ nhẹ đến mức không được chú ý đến bệnh tim hoặc gan nặng cần cấy ghép.
Một số người mắc hội chứng Alagille có thể có các dấu hiệu riêng biệt như tứ chứng Fallot hoặc một biểu hiện đặc trưng trên khuôn mặt nhưng họ không mắc bệnh gan hoặc có các đặc điểm khác điển hình của bệnh.
Độ phổ biến
Hội chứng Alagille ước tính ảnh hưởng đến khoảng 1/70.000 số trẻ sơ sinh. Con số này dựa trên chẩn đoán bệnh gan ở trẻ sơ sinh và có thể con số thực tế lớn hơn vì một số người mắc hội chứng Alagille không phát triển bệnh gan trong thời kỳ sơ sinh.
Nguyên nhân
Hơn 90% số trường hợp bị hội chứng Alagille do đột biến gen JAG1 gây ra, khoảng 7% do bị mất đoạn nhỏ trên nhiễm sắc thể 20 có chứa gen JAG1. Một số người mắc hội chứng Alagille có đột biến ở một gen khác là gen NOTCH2. Các gen JAG1 và NOTCH2 mang thông tin tổng hợp ra các protein tương ứng để kích hoạt các tương tác được gọi là tín hiệu Notch giữa các tế bào lân cận trong quá trình phát triển phôi. Tín hiệu này ảnh hưởng đến cách thức sử dụng các tế bào để xây dựng cấu trúc cơ thể trong phôi thai đang phát triển. Những biến đổi trên gen JAG1 hoặc NOTCH2 có thể làm gián đoạn con đường tín hiệu Notch. Do đó, các sai sót có thể xảy ra trong quá trình phát triển, đặc biệt là ảnh hưởng đến đường mật, tim, cột sống và một số đặc điểm trên khuôn mặt.
Chẩn đoán
Chẩn đoán Hội chứng Alagille thường dựa vào các biểu hiện lâm sàng ở từng cá nhân. Nói chung, hội chứng liên quan đến 5 dấu hiệu đặc trưng bao gồm:
- Giảm lưu lượng mật
- Bệnh tim bẩm sinh
- Dị tật xương
- Dày một đường trên bề mặt mắt
- Các dị biệt khác trên khuôn mặt
Chẩn đoán có thể được xác nhận bằng xét nghiệm gen.
Điều trị
Cần nhiều bác sĩ để theo dõi và điều trị hội chứng Alagille, bao gồm các chuyên gia về di truyền y học, tiêu hóa, thận học, dinh dưỡng, tim mạch, nhãn khoa, ghép gan và nhi khoa. Điều trị có thể bao gồm:
- Thuốc làm tăng lưu lượng mật và giảm ngứa, như cholestyramine, rifampin và naltrexone.
- Các thủ thuật dẫn lưu mật (dẫn lưu một phần mật trong và loại trừ hồi tràng) làm gián đoạn lưu thông mật bình thường giữa ruột và gan, dẫn đến mật bị đào thải và do đó làm giảm nồng độ mật trong máu. Các thủ thuật này làm giảm các triệu chứng của bệnh gan, chẳng hạn như ngứa và cải thiện chất lượng cuộc sống nhưng không ngăn chặn được sự tiến triển của bệnh gan.
- Bổ sung vitamin và dinh dưỡng đặc biệt để hỗ trợ tăng trưởng và phát triển phù hợp. Trẻ sơ sinh mắc hội chứng Alagille được cung cấp một công thức đặc biệt giúp ruột non hấp thụ chất béo. Chế độ ăn giàu calo, canxi, với vitamin A, D, E, K và đôi khi là kẽm. Thi thoảng trẻ có thể bổ sung calo qua một ống nhỏ được đưa qua mũi vào dạ dày. Nếu cần thêm calo trong thời gian dài, bác sĩ có thể đặt ống thông dạ dày qua một lỗ nhỏ được tạo ra ở bụng. Theo dõi dinh dưỡng có thể cần tiếp tục trong suốt cuộc đời của người bệnh, nhưng đặc biệt là trong thời thơ ấu, với việc theo dõi và cân bằng các chất dinh dưỡng, chất béo, calo, vitamin tan trong chất béo, canxi và kẽm. Mỗi người mắc hội chứng Alagille có thể có nhu cầu ăn uống khác nhau và nhu cầu có thể thay đổi trong suốt cuộc đời của họ, vì vậy nên thường xuyên tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa dinh dưỡng.
- Cấy ghép gan để tăng tuổi thọ và cải thiện chức năng gan cho những người mắc bệnh gan giai đoạn cuối. Mặc dù có tiến triển sau khi ghép gan ở trẻ em mắc hội chứng Alagille, nhưng không nhiều như ở trẻ em mắc các bệnh gan khác.
- Phẫu thuật tim hoặc một thủ thuật dựa trên ống thông để sửa một dị tật tim. Các vấn đề về tim được điều trị giống như các vấn đề về tim tương tự ở trẻ em không mắc hội chứng Alagille mặc dù có thể phức tạp nếu các cơ quan khác bị ảnh hưởng bởi hội chứng.
- Phẫu thuật hoặc điều trị thận để điều chỉnh bất kỳ bất thường nào về thận. Các vấn đề về thận được điều trị giống như các vấn đề về thận ở trẻ em không mắc hội chứng Alagille, mặc dù có thể phức tạp nếu các cơ quan khác bị ảnh hưởng bởi hội chứng.
Các vấn đề về tim có thể sinh biến chứng sau khi ghép gan, đặc biệt là hẹp động mạch phổi do quá tải áp lực thất phải. Trong những trường hợp này, một thủ thuật được gọi là can thiệp máy truyền tim bẩm sinh có thể được thực hiện trước khi ghép gan.
Dạng di truyền
Hội chứng Alagille được di truyền theo kiểu trội trên nhiễm sắc thể thường, nghĩa là chỉ cần một bản sao của gen bị đột biến hoặc bị mất trong mỗi tế bào cũng đủ để gây ra bệnh.
Các trường hợp khác do đột biến gen mới xuất hiện hoặc do mới bị mất đoạn vật liệu di truyền trên nhiễm sắc thể số 20 xảy ra một cách ngẫu nhiên trong quá trình hình thành tế bào sinh sản (trứng hoặc tinh trùng) hoặc trong giai đoạn phát triển sớm của bào thai. Những trường hợp này xuất hiện ở những người không có tiền sử trong gia đình bị mắc rối loạn này.
Phòng ngừa
Nếu bạn lo lắng về tiền sử gia đình mắc hội chứng Alagille hoặc nếu bạn đã có con mắc chứng rối loạn này, hãy cân nhắc nói chuyện với bác sĩ hoặc chuyên gia tư vấn di truyền để được giúp lập kế hoạch mang thai trong tương lai.
Hiện nay, xét nghiệm sàng lọc không xâm lấn NIPT ihope có thể phát hiện hội chứng Alagille, thực hiện sớm từ tuần thai thứ 10 với độ chính xác lên đến 99%. Chỉ cần lấy 5ml máu thai phụ để xét nghiệm nên bảo đảm an toàn cho cả mẹ và con.
Các tên gọi khác
- Hội chứng Alagille
- Hội chứng Alagille-Watson
- Hội chứng AHD
- Hội chứng tinh mạch
- Ứ mạch và hẹp phổi ngoại vi
- Mờ ống dẫn liên cầu thận
- Hội chứng Watson-Miller
References
- Genetic Testing Information. Alagille syndrome 1. Retrieved November 24, 2020 from https://www.ncbi.nlm.nih.gov/gtr/conditions/C1956125/
- Catalog of Genes and Diseases from OMIM. ALAGILLE SYNDROME 1; ALGS1. Retrieved November 24, 2020 from https://omim.org/entry/118450
- Genetic and Rare Diseases Information Center. Alagille syndrome. Retrieved November 24, 2020 from https://rarediseases.info.nih.gov/diseases/804/alagille-syndrome
- U.S National Library of Medicine. Alagille syndrome. Retrieved November 24, 2020 from https://medlineplus.gov/genetics/condition/alagille-syndrome/
- American Liver Foundation. Alagille syndrome. Retrieved November 24, 2020 from https://liverfoundation.org/for-patients/about-the-liver/diseases-of-the-liver/alagille-syndrome/
- National Institute of Diabetes and Digestive and Kidney Diseases. Alagille syndrome. Retrieved November 24, 2020 from https://www.niddk.nih.gov/health-information/liver-disease/alagille-syndrome