• Skip to primary navigation
  • Skip to main content
  • Skip to footer
  • Hà Nội
  • TPHCM
  • Đà Nẵng
  • Sàng lọc thai NIPT
  • Chẩn đoán ung thư
  • Sàng lọc gen lặn
  • Chẩn đoán di truyền
  • Hà Nội
  • TPHCM
  • Đà Nẵng
  • Zalo
  • Facetime
  • Viber
  • Web chat
  • Gọi
  • Zalo
  • Dịch vụ
  • Địa chỉ
  • Đặt hẹn

Trung tâm xét nghiệm ihope

  • Xét nghiệm
    • Sàng lọc thai NIPT

      Phát hiện sớm hội chứng Down

    • Chẩn đoán ung thư

      Hỗ trợ điều trị trúng đích và miễn dịch

    • Sàng lọc gen lặn

      Phát hiện sớm các bệnh di truyền

    • Chẩn đoán di truyền

      Bệnh di truyền ở trẻ em và người lớn

    • Hợp tác
  • Thư viện
  • Hỗ trợ
  • Liên hệ
  • Xét nghiệm
    • Sàng lọc thai NIPT
    • Chẩn đoán ung thư
    • Sàng lọc gen lặn
    • Chẩn đoán di truyền
  • Links
    • Hỗ trợ
    • Liên hệ
    • Hợp tác
    • Thư viện
  • Gọi ngay
nguyen-nhan-gay-ung-thu-1
Thư viện Ung thưCơ bản về ung thư

Nguyên nhân gây ung thư

“Bộ điều khiển” ung thư

Các đột biến di truyền góp phần gây ra ung thư có xu hướng ảnh hưởng đến ba loại gen chính gồm gen tiền ung thư, gen ức chế khối u và gen sửa chữa ADN. Những thay đổi này đôi khi được gọi là “bộ điều khiển” của ung thư.

Gen tiền ung thư liên quan đến quá trình phát triển và phân chia tế bào bình thường. Tuy nhiên, khi những gen này bị thay đổi hoặc hoạt động quá mức bình thường, chúng có thể trở thành gen gây ung thư (hoặc gen ung thư) và cho phép tế bào phát triển và tồn tại ngoài vòng kiểm soát.

Các gen ức chế khối u cũng liên quan đến quá trình kiểm soát sự phát triển và phân chia tế bào. Nếu tế bào có những đột biến nhất định trong gen ức chế khối u, chúng có thể phân chia mất kiểm soát.

Gen ức chế khối u
Ảnh: Gen ức chế khối u
Nguồn: National Cancer Institute

Các gen sửa chữa ADN có nhiệm vụ khắc phục ADN bị hư hỏng. Tế bào mang đột biến tại các gen này có xu hướng phát triển những đột biến bổ sung ở các gen khác. Kết hợp với nhau, những đột biến này có thể khiến các tế bào trở thành ung thư.

Khi tìm hiểu về những thay đổi dẫn đến ung thư, người ta đã phát hiện ra một số đột biến cụ thể thường xảy ra ở nhiều loại ung thư. Do đó, bệnh ung thư đôi khi được đặc trưng bởi các dạng đột biến di truyền, không chỉ bởi vị trí chúng phát triển trong cơ thể mà còn cách tế bào ung thư thể hiện dưới kính hiển vi.

Ung thư di căn

Ung thư lây lan từ nơi mà nó bắt đầu đến một nơi khác trong cơ thể được gọi là ung thư di căn, chúng có cùng tên và loại tế bào với ung thư ban đầu (ung thư nguyên phát). Ví dụ, ung thư vú di căn đến và hình thành một khối u di căn trong phổi là ung thư vú di căn, không phải ung thư phổi.

Dưới kính hiển vi, các tế bào ung thư di căn thường trông giống như các tế bào ung thư ban đầu. Hơn nữa, tế bào ung thư di căn và tế bào của ung thư ban đầu thường có một số đặc điểm chung, chẳng hạn như một số thay đổi nhiễm sắc thể.

Ung thư di căn
Ảnh: Khi di căn, các tế bào ung thư thoát ra khỏi nơi chúng hình thành đầu tiên (ung thư nguyên phát), di chuyển qua hệ thống máu hoặc bạch huyết rồi hình thành các khối u mới (khối u di căn) ở các bộ phận khác của cơ thể. Khối u di căn là loại ung thư giống như khối u nguyên phát.
Nguồn: Terese Winslow

Điều trị có thể giúp kéo dài cuộc sống của một số bệnh nhân ung thư di căn. Mặc dù vậy, mục tiêu chính của các phương pháp điều trị ung thư di căn là kiểm soát sự phát triển của ung thư hoặc làm giảm các triệu chứng do ung thư gây ra. Các khối u di căn có thể gây tổn hại nghiêm trọng đến quá trình hoạt động của cơ thể, hầu hết trường hợp tử vong do ung thư đều chết vì bệnh di căn.

Mô biến đổi

Không phải mọi thay đổi trong các mô của cơ thể đều là ung thư. Tuy nhiên, một số thay đổi mô có thể phát triển thành ung thư nếu chúng không được điều trị. Dưới đây là một số ví dụ về những thay đổi mô không phải là ung thư nhưng trong một số trường hợp cần phải được theo dõi:

Quá trình biến đổi mô
Ảnh: Quá trình biến đổi mô
Nguồn: Terese Winslow LLC
  • Tăng sản xảy ra khi các tế bào trong mô phân chia nhanh hơn bình thường và tích tụ hoặc tăng sinh, tuy nhiên các tế bào và cách tổ chức mô trông bình thường dưới kính hiển vi. Tăng sản có thể do một số yếu tố hoặc bệnh gây ra, bao gồm cả kích ứng mãn tính.
  • Loạn sản là một tình trạng nghiêm trọng hơn tăng sản. Trong loạn sản, cũng có sự tích tụ của các tế bào phụ trội. Nhưng các tế bào trông không bình thường và có những thay đổi trong cách tổ chức mô. Nói chung, các tế bào và mô trông càng bất thường thì nguy cơ hình thành ung thư càng cao. Một số loại loạn sản có thể cần được theo dõi hoặc điều trị. Một ví dụ về chứng loạn sản là một nốt ruồi bất thường (được gọi là nốt ruồi loạn sản) hình thành trên da ,ví dụ như ung thư hắc tố. Một khối u loạn sản có thể chuyển thành u ác tính, mặc dù hầu hết lành tính.
  • Ung thư biểu mô tại chỗ là một tình trạng thậm chí còn nghiêm trọng hơn. Mặc dù đôi khi được gọi là ung thư, ung thư biểu mô tại chỗ không phải là ung thư vì các tế bào bất thường không lan ra ngoài mô ban đầu, chúng không xâm lấn mô lân cận như cách mà các tế bào ung thư làm. Tuy nhiên, vì một số ung thư biểu mô tại chỗ có thể trở thành ung thư, chúng thường được điều trị.

Cùng chuyên mục

  • Ung thư là gì?
  • Nguyên nhân gây ung thư
  • Các loại ung thư
  • Ung thư di căn là gì?
  • ctDNA là gì và ứng dụng để chẩn đoán ung thư?

Xem thêm Kiến thức cơ bản về ung thư

Tài liệu tham khảo

  1. National Cancer Institute. What is Cancer?. Retrieved July 14, 2020 from https://www.cancer.gov/about-cancer/understanding/what-is-cancer

Mục: Cơ bản về ung thư

ctDNA là gì và ứng dụng để chẩn đoán ung thư?
Các loại ung thư

Footer

  • Xét nghiệm

    • Sàng lọc thai NIPT
    • Chẩn đoán ung thư
    • Sàng lọc gen lặn
    • Bệnh di truyền
  • Giới thiệu

    • Về chúng tôi
    • Công nghệ
    • Thư viện
    • Hợp tác
  • Hỗ trợ

    • Hỏi đáp
    • Bảo hành
    • Chính sách
  • Liên hệ

    • +84968911884
    • info@ihope.vn
    • Địa chỉ
© 2018 - 2023 Trung tâm xét nghiệm ihope