Ung thư nguyên phát và ung thư thứ phát
Khái niệm ung thư nguyên phát, nguyên phát thứ hai và ung thư thứ phát rất dễ gây nhầm lẫn cho bệnh nhân hay người nhà bệnh nhân. Nắm rõ các khái niệm cơ bản và phân biệt được những loại ung thư không chỉ giúp người bệnh hiểu hơn về bệnh trạng mà còn ung cấp cho bác sĩ các lựa chọn điều trị phù hợp.
Ung thư nguyên phát
Ung thư nguyên phát là loại ung thư do tế bào ung thư xuất phát trực tiếp từ cơ quan hoặc bộ phận đề cập đến. Một người có thể mắc nhiều loại ung thư nguyên phát cùng lúc hoặc cách nhau một thời gian.
Ung thư thứ phát
Ung thư thứ phát là bệnh ung thư bắt đầu từ một vị trí trên cơ thể sau đó lây lan (di căn) sang vùng khác.
Ví dụ: ung thư bắt đầu ở phổi gọi là ung thư phổi nguyên phát. Nếu tế bào ung thư phổi di căn đến não, gọi là ung thư phổi nguyên phát di căn đến não hoặc ung thư não thứ phát. Trong trường hợp này, tế bào ung thư trong não sẽ là tế bào ung thư phổi, không phải tế bào ung thư não. Ngược lại, người bị ung thư phổi nguyên phát và ung thư não nguyên phát thứ hai mà không liên quan đến nhau. Trong trường hợp này, tế bào ung thư não sẽ là tế bào não chứ không phải tế bào phổi.
Ung thư thứ hai
Bệnh ung thư thứ hai và bệnh ung thư thứ phát là hai thuật ngữ khác nhau. Bệnh ung thư thứ hai do nguyên nhân khác gây ra, không liên quan đến bệnh ung thư đầu tiên, còn gọi là ung thư nguyên phát thứ hai. Ung thư thứ phát bắt đầu từ tế bào ung thư nguyên phát hoặc ung thư thứ hai di căn đến.
Nguyên nhân gây ung thư thứ hai
Ung thư thứ hai không liên quan trực tiếp đến ung thư nguyên phát. Mỗi loại ung thư phát sinh từ đột biến xảy ra trong các tế bào khác nhau và một số nguyên nhân, bao gồm:
Di truyền
Một số trường hợp mắc ung thư nhưng có thể làm tăng nguy cơ phát triển loại ung thư khác. Ví dụ, đột biến gen BRCA2 làm tăng nguy cơ ung thư vú. Ngoài ra, người bệnh có khả năng mắc ung thư buồng trứng, ung thư tuyến tiền liệt, bệnh bạch cầu, ung thư tụy và ung thư phổi.
Tác dụng phụ của điều trị ung thư
Quá trình điều trị ung thư (thuốc sử dụng trong hóa trị, xạ trị) có thể làm tăng nguy cơ phát triển một bệnh ung thư khác. Ví dụ, một số loại thuốc hóa trị sử dụng cho bệnh nhân ung thư vú có thể làm tăng nguy cơ phát triển bệnh bạch cầu. Ung thư nguyên phát thứ hai là tác dụng phụ tiềm ẩn lâu dài của điều trị ung thư, do đó các nhà nghiên cứu đang tìm kiếm loại thuốc hóa trị ít có khả năng gây bệnh.
Đối với một người sống lâu với bệnh ung thư, tỷ lệ mắc bệnh ung thư nguyên phát thứ hai dự kiến tăng lên đáng kể. Một nghiên cứu của Israel năm 2017 cho thấy trong số những người sống sót sau ung thư vú, 3,6% phát triển thành bệnh ung thư nguyên phát thứ hai trong vòng 5 năm kể từ lần chẩn đoán đầu và 8,2% trong vòng 10 năm sau khi chẩn đoán. Hiện nay, ung thư nguyên phát thứ hai là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ hai (sau ung thư nguyên phát) ở những người mắc ung thư đầu và cổ. Hay bệnh Hodgkin thường được điều trị khi còn trẻ cho tỷ lệ sống cao, nhưng lại làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư thứ phát đến khoảng 20-30%. Do đó, người bệnh cần được kiểm tra tầm soát định kỳ, ví dụ như MRI sàng lọc ung thư vú.
Ung thư không rõ nguồn gốc
Trong một số trường hợp, bác sĩ không thể xác định vị trí ung thư bắt đầu nên gọi là ung thư di căn không rõ nguồn gốc nguyên phát. Nguyên nhân có thể do:
- Tế bào ung thư có thể giống tế bào bình thường, khó phân biệt dưới kính hiển vi.
- Khối u nguyên phát còn quá nhỏ.
- Khối u nguyên phát thu nhỏ hoặc biến mất.
- Khối u nguyên phát đã được phẫu thuật loại bỏ trước đó, vd như loại bỏ nốt ruồi trên da hoặc phẫu thuật cắt bỏ tử cung.
Sự phát triển của xét nghiệm chẩn đoán và phân tích cấu trúc phân tử giúp giảm trường hợp chẩn đoán ung thư không rõ nguyên nhân.
Ung thư không phải lúc nào cũng xuất phát trực tiếp từ cơ quan hay bộ phận đề cập đến. Ví dụ, ung thư hạch (u lympho) chưa thể xác định vị trí bắt đầu trong hạch bạch huyết nhưng nó không phải là ung thư không rõ nguồn gốc. Những khối u như thế này có thể gây nhầm lẫn khi nói về ung thư nguyên phát và ung thư nguyên phát thứ hai vì u lympho có thể được tìm thấy trong nhiều mô. Tuy nhiên, trong trường hợp này, khi quan sát dưới kính hiển vi tất cả các tế bào sẽ là tế bào ung thư hạch. Vì vậy, nếu tế bào ung thư trong dạ dày là tế bào ung thư hạch, nó sẽ là ung thư nguyên phát nhưng nếu chúng là tế bào dạ dày, trường hợp này là ung thư nguyên phát thứ hai.
References
- National Cancer Institute. Division of Cancer Epidemiology and Genetics. Second Primary Cancers. Retrieved June 17, 2022 from https://dceg.cancer.gov/research/what-we-study/second-cancers
- American Society of Clinical Oncology. Cancer.Net. Unknown Primary. Retrieved June 17, 2022 from https://www.cancer.net/cancer-types/unknown-primary/introduction
- American Cancer Society. What is a Cancer of Unknown Primary? Retrieved June 17, 2022 from https://www.cancer.org/cancer/cancer-unknown-primary/about/cancer-of-unknown-primary.html
- Verywell Health. Differences Between a Primary Cancer and a Secondary Cancer. Retrieved June 17, 2022 from https://www.verywellhealth.com/what-is-a-primary-cancer-2249169