Hội chứng Klinefelter
Hội chứng Klinefelter là một rối loạn nhiễm sắc thể ở trẻ em trai và nam giới có thể ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất và trí tuệ. Thông thường, những người bệnh nặng hơn mức trung bình không có khả năng làm cha con đẻ (vô sinh); tuy nhiên, các dấu hiệu và triệu chứng của hội chứng Klinefelter khác nhau giữa các bé trai và nam giới bị bệnh. Trong một số trường hợp, các đặc điểm của bệnh rất nhẹ nên tình trạng này không được chẩn đoán cho đến khi dậy thì hoặc trưởng thành, các nhà nghiên cứu tin rằng có tới 75% nam giới và trẻ em trai bị ảnh hưởng không bao giờ được chẩn đoán.
Biểu hiện lâm sàng
Hội chứng Klinefelter thường không có bất kỳ triệu chứng nào rõ ràng khi còn nhỏ, ngay cả ở giai đoạn sau cũng khó phát hiện. Hầu hết người mắc hội chứng đều không bị ảnh hưởng đáng kể và có một cuộc sống bình thường khỏe mạnh. Do vậy, khoảng 66% nam giới không biết bị mắc bệnh và chỉ khoảng 10% được chẩn đoán trước tuổi dậy thì.
Bên cạnh đó, những người mắc hội chứng Klinefelter có nguy cơ mắc phải những vấn đề sức khỏe như sau:
- Tiểu đường loại 2
- Béo phì
- Loãng xương (osteoporosis)
- Vấn đề về tim mạch: thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch, thuyên tắc động mạch phổi
- Bệnh tự miễn dịch như lupus
- Cường giáp
- Trầm cảm
- Ung thư đặc biệt nguy cơ ung thư vú cao hơn 20 đến 50 lần so với đàn ông bình thường
- Bệnh phổi
- Hội chứng Sjogren
- Viêm khớp dạng thấp
- Vấn đề về răng như dễ bị sâu răng
- Thiếu máu
- Hen suyễn
- Động kinh
Độ phổ biến
Hội chứng Klinefelter ảnh hưởng đến khoảng 1/650 bé trai sơ sinh. Đây là một trong những rối loạn nhiễm sắc thể giới tính phổ biến nhất, gây ra bởi sự thay đổi số lượng nhiễm sắc thể giới tính (nhiễm sắc thể X và nhiễm sắc thể Y).
Nguyên nhân
Thông thường, nữ có hai nhiễm sắc thể giới tính X (XX) và nam có một nhiễm sắc thể giới tính X và một nhiễm sắc thể giới tính Y. Đối với hội chứng Klinefelter, một bé trai được sinh ra đời sẽ có thêm một bản sao nhiễm sắc thể X (XXY). Nhiễm sắc thể phụ xuất hiện từ trứng của người mẹ hoặc tinh trùng của người cha một cách ngẫu nhiên. Do vậy, hội chứng này không mang tính di truyền. Nếu cha mẹ có một đứa con trai mắc hội chứng này thì nguy cơ ở đứa con trai thứ hai là rất thấp. Trong một số ít trường hợp, hội chứng này có dạng biến thể với sự có mặc số nhiễm sắc thể X nhiều hơn (XXXY hoặc XXXXY), bổ sung cả nhiễm sắc thể X và Y (XXYY) với triệu chứng nặng. Một số trường hợp có triệu chứng nhẹ vì cơ thể chứa một hỗn hợp hai loại tế bào, một số tế bào bình thường và một số tế bào chứa ba bản sao nhiễm sắc thể XXY

Chẩn đoán
Trước sinh
Hai loại xét nghiệm phổ biến có thể chẩn đoán hội chứng Klinefelter trong giai đoạn mang thai là xét nghiệm sàng lọc và xét nghiệm chẩn đoán.
Xét nghiệm sàng lọc được thực hiện thường quy cho tất cả thai phụ, tuy nhiên kết quả chỉ cho biết tỷ lệ mắc hội chứng. Các xét nghiệm phổ biến như:
- Siêu âm
- Đo độ mờ da gáy và Double test thực hiện giữa tuần thứ 11 đến 14
- Triple test tại tuần thứ 16 đến 18
Xét nghiệm chẩn đoán bằng phương pháp xâm lấn bào thai có độ chính xác cao:
- Chọc ối được thực hiện từ tuần 16
- Sinh thiết gai nhau (Chorionic villus sampling - CVS) thực hiện từ tuần thứ 9 đến 14
- Thu mẫu máu dây rốn (Percutaneous umbilical blood sampling – PUBS) thực hiện sau tuần 18
Tuy nhiên, xét nghiệm xâm lấn luôn tiềm ẩn một rủi ro như sẩy thai, thai lưu hoặc nhiễm trùng do quá trình thực hiện (Bảng 1).
Thai đơn | Thai đôi | |
---|---|---|
Chọc ối | 1,9% | 3,07% |
Sinh thiết gai nhau | 2% | 3,84% |
Thu mẫu dây rốn | 2% | N/A |
Bảng-1. Tỷ lệ thai phụ bị sẩy thai và thai lưu do xét nghiệm xâm lấn
Hiện nay, xét nghiệm sàng lọc trước sinh không xâm lấn NIPT (Non Invasive Prenatal Test) bằng cách tách ADN tự do thai nhi từ máu của thai phụ từ tuần thai thứ 9 là tiến bộ vượt bậc trong việc phát hiện hội chứng Klinefelter ở thai nhi với độ chính xác cao. NIPT chỉ cần 5-8ml máu thai phụ nên bảo đảm an toàn cho cả mẹ và con, có thể thay thế phương pháp xâm lấn chọc ối trong đa số trường hợp.
Sau sinh
Hội chứng Klinefelter thường được xác định ban đầu ở trẻ sau sinh dựa vào một đặc điểm bên ngoài. Bác sĩ sẽ chỉ định bệnh nhân thực hiện xét nghiệm hàm lượng nội tiết tố testosterone và xét nghiệm Karyotype để phân tích nhiễm sắc thể, nhằm có thể chẩn đoán chính xác hội chứng Klinefelter.
Điều trị
Hiện nay khoa học chưa có phương pháp điều trị hiệu quả hội chứng Klinefelter. Tuy nhiên, một số vấn đề sức khỏe liên quan đến có thể được kiểm soát bằng những phương pháp cụ thể như sau:
Thay thế testosterone
Một số hormone được sử dụng trong việc thay thế như testosterone enanthate, cypionate, hoặc androgel. Những loại hormone này được đưa vào cơ thể giúp cải thiện tâm trạng chán nản, giảm mệt mõi, tăng ham muốn tình dục, tăng cường sự tập trung, tăng sức mạnh cơ bắp, tăng độ cứng cho xương. Liệu pháp có hiệu quả nhất trong giai đoạn dậy thì. Hiện nay liệu pháp này có thể nhiều hình thức như dạng cấy, thuốc dán, gel, thuốc uống và tiêm. Tuy nhiên liệu pháp này không thể cải thiện kích thước của tinh hoàn hoặc ngăn chặn tình trạng vô sinh.
Hỗ trợ sinh sản
Tinh trùng có nguồn từ nguồn hiến tặng hoặc từ chính người bệnh và được áp dụng bằng kỹ thuật chọc hút tinh trùng từ tinh hoàn và tiêm tinh trùng trực tiếp vào buồng trứng. Hầu hết con của người cha mắc hội chứng Klinefelter có nhiễm sắc thể bình thường. Tuy nhiên, một số ít trường hợp vẫn có sự xuất hiện bất thường nhiễm sắc thể, vì vậy chẩn đoán tiền sản cần được thực hiện trong giai đoạn thai kỳ.
Các phương pháp khác
- Thực hiện kiểm tra sức khỏe theo định kỳ hai năm một lần với những xét nghiệm chức năng tuyến giáp, hàm lượng cholesterol và glucose trong máu
- Phẫu thuật hút mỡ hoặc cắt bỏ vùng vú
- Liệu pháp ngôn ngữ giúp phát triển khả năng nói
- Chương trình giáo dục đặc biệt để giúp đỡ những vấn đề khó khăn trong học tập
- Vật lý trị liệu để hỗ trợ tăng cường sức mạnh cơ bắp
- Hỗ trợ tâm lý cho bất cứ vấn đề liên quan đến tinh thần
Dạng di truyền
Hội chứng Klinefelter không di truyền. Có thêm một nhiễm sắc thể X xảy ra trong quá trình hình thành các tế bào sinh sản (trứng hoặc tinh trùng) của cha hoặc mẹ của người bệnh. Trong quá trình phân chia tế bào, một lỗi được gọi là không phân ly ngăn cản các nhiễm sắc thể X được phân phối bình thường giữa các tế bào sinh sản khi chúng hình thành. Thông thường, khi các tế bào phân chia, mỗi tế bào trứng nhận được một nhiễm sắc thể X duy nhất và mỗi tế bào tinh trùng nhận được một nhiễm sắc thể X hoặc một nhiễm sắc thể Y. Tuy nhiên, do không liên kết với nhau, một tế bào trứng hoặc một tế bào tinh trùng cũng có thể kết thúc với một bản sao thừa của nhiễm sắc thể X.
Nếu một tế bào trứng có thêm một nhiễm sắc thể X (XX) được thụ tinh bởi một tế bào tinh trùng có một nhiễm sắc thể Y, thì đứa trẻ sẽ bị hội chứng Klinefelter. Tương tự, nếu một tế bào tinh trùng có cả nhiễm sắc thể X và nhiễm sắc thể Y (XY) thụ tinh với tế bào trứng có một nhiễm sắc thể X đơn lẻ, thì đứa trẻ sẽ mắc hội chứng Klinefelter.
Hội chứng khảm Klinefelter (46,XY / 47,XXY) cũng không di truyền. Nó xảy ra như một lỗi ngẫu nhiên trong quá trình phân chia tế bào sớm trong quá trình phát triển của bào thai. Kết quả là một số tế bào của cơ thể có một nhiễm sắc thể X thông thường và một nhiễm sắc thể Y (46,XY), và các tế bào khác có thêm một bản sao của nhiễm sắc thể X (47,XXY).
Phòng ngừa
Nếu lo lắng về tiền sử gia đình mắc hội chứng Klinefelter (47,XXY) hoặc nếu đã có con mắc chứng rối loạn này, hãy cân nhắc nói chuyện với bác sĩ hoặc chuyên gia tư vấn di truyền để được giúp lập kế hoạch mang thai trong tương lai.
Hiện nay, xét nghiệm sàng lọc không xâm lấn NIPT ihope có thể phát hiện hội chứng Klinefelter, thực hiện sớm từ tuần thai thứ 10 với độ chính xác lên đến 99%. Chỉ cần lấy 5ml máu thai phụ để xét nghiệm nên bảo đảm an toàn cho cả mẹ và con.
Các tên gọi khác
- hội chứng 47,XXY
- hội chứng Klinefelter
- Klinefelter's syndrome
- hội chứng XXY
- tam bội XXY
References
- Genetic Testing Information. Klinefelter syndrome, XXY. Retrieved August 9, 2018 from Healthwise Staff, 2018. Klinefelter Syndrome. https://www.mottchildren.org/health-library/hw183686
- Genetic and Rare Diseases Information Center. Klinefelter syndrome. Retrieved August 9, 2018 from https://rarediseases.info.nih.gov/diseases/8705/klinefelter-syndrome
- U.S. National Library of Medicine. Klinefelter syndrome. Retrieved August 9, 2018 from https://medlineplus.gov/genetics/condition/klinefelter-syndrome/
- Nemours Foundation. Klinefelter Syndrome. Retrieved August 9, 2018 from https://kidshealth.org/en/parents/klinefelter-syndrome.html
- Healthwise Staff, 2018. Klinefelter Syndrome. https://www.mottchildren.org/health-library/hw183686
- Glenda Fauntleroy, 2012. Klinefelter Syndrome. Retrieved August 10, 2018 https://endocrinenews.endocrine.org/klinefelter-syndrome/
- Bourke, E., Herlihy, A., Snow, P., Metcalfe, S., & Amor, D., 2014. Klinefelter syndrome: a general practice perspective. Australian family physician, 43(1/2), 38
- Mayo Clinic, 2016. Klinefelter syndrome. Retrieved August 8, 2018 from https://www.mayoclinic.org/diseases-conditions/klinefelter-syndrome/symptoms-causes/syc-20353949
- NHS, 2016. Klinefelter syndrome. Retrieved August 8, 2018 from https://www.nhs.uk/conditions/klinefelters-syndrome/
- Wattendorf, D. J., & Muenke, M. (2005). Klinefelter syndrome. American family physician, 72(11)