Hội chứng Bloom
Hội chứng Bloom là một chứng rối loạn di truyền khiến những người mắc phải có tầm vóc thấp bé, phát ban trên da khi tiếp xúc với ánh nắng mặt trời và tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư.
Ảnh: Nhiễm sắc thể chị em
Nguồn: U.S. National Library of Medicine
Ảnh: Cấu trúc mũi bất thường
Nguồn: U.S. National Library of Medicine
Ảnh: Mặt dài và hẹp
Nguồn: U.S. National Library of Medicine
Ảnh: Cấu trúc ADN
Nguồn: U.S. National Library of Medicine
Biểu hiện lâm sàng
Người mắc hội chứng Bloom thường thấp bé hơn so với người bình thường cả về chiều cao và cân nặng ngay từ khi sinh ra, hiếm khi cao quá 150cm khi trưởng thành.
Người bệnh có làn da nhạy cảm với ánh nắng mặt trời với một mảng da đỏ hình cánh bướm thường thấy trên mũi và má. Ban cũng có thể xuất hiện tại các khu vực thường tiếp xúc với ánh nắng mặt trời như mu bàn tay và cẳng tay. Các cụm mạch máu nhỏ giãn ra (giãn mao mạch - telangiectases) thường xuất hiện cùng với phát ban, giãn mao mạch cũng có thể xảy ra ở mắt. Các vấn đề khác như mảng da sáng hoặc sẫm màu hơn các vùng xung quanh (giảm sắc tố hoặc tăng sắc tố da). Những mảng này xuất hiện trên những vùng da không tiếp xúc với ánh nắng mặt trời và thường không liên quan đến phát ban.
Những người mắc hội chứng Bloom có nguy cơ mắc bệnh ung thư cao hơn bình thường. Họ có thể sớm phát triển bất kỳ loại ung thư và thường mắc nhiều hơn một loại.
Những người mắc hội chứng Bloom có giọng nói the thé và các đặc điểm bất thường trên khuôn mặt bao gồm khuôn mặt dài và hẹp , hàm dưới nhỏ, mũi và tai có hình dạng bất thường . Các đặc điểm khác có thể bao gồm thiểu năng trí tuệ, tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường, tắc nghẽn phổi mãn tính (COPD) và suy giảm hệ miễn dịch nhẹ dẫn đến nhiễm trùng đường hô hấp, tai và phổi. Nam giới mắc hội chứng Bloom không sản xuất được tinh trùng dẫn đến vô sinh nam. Phụ nữ mắc chứng rối loạn này thường bị giảm khả năng sinh sản và mãn kinh ở độ tuổi sớm hơn bình thường.
Độ phổ biến
Hội chứng Bloom là một chứng rối loạn hiếm gặp. Chỉ có vài trăm người mắc bệnh được ghi nhận trong các tài liệu y khoa, khoảng một phần ba trong số đó là người gốc Do Thái ở Trung và Đông Âu (Ashkenazi).
Nguyên nhân
Đột biến trên gen BLM gây ra hội chứng Bloom. Gen BLM hướng dẫn tạo ra một thành viên của họ protein RecQ helicase. Helicase là những enzyme gắn vào ADN và tháo chuỗi xoắn kép của phân tử ADN . Quá trình tháo xoắn này cần thiết cho một số quá trình diễn ra trong nhân tế bào, bao gồm sao chép ADN để chuẩn bị cho quá trình
Khi một tế bào chuẩn bị phân chia để tạo thành hai tế bào, ADN sẽ được sao chép để mỗi tế bào mới đều có hai bản sao của mỗi nhiễm sắc thể. ADN sao khi được sao chép sẽ sắp xếp thành hai cấu trúc giống nhau, được gọi là các cặp nhiễm sắc thể chị em , gắn vào nhau trong giai đoạn đầu của quá trình phân chia tế bào. Các cặp nhiễm sắc thể chị em thỉnh thoảng trao đổi các đoạn ADN nhỏ trong thời gian này. Các nhà nghiên cứu cho rằng những trao đổi này có thể làm hỏng chuỗi ADN trong quá trình sao chép. Protein BLM giúp ngăn chặn quá trình trao đổi này và cũng tham gia vào các quá trình khác giúp duy trì sự ổn định của ADN trong quá trình sao chép.
Đột biến gen BLM tạo ra protein BLM không có chức năng, khiến tần suất trao đổi của các cặp nhiễm sắc thể chị em cao hơn khoảng 10 lần so với mức trung bình. Trao đổi ADN giữa các nhiễm sắc thể có nguồn gốc từ mẹ và cha (nhiễm sắc thể tương đồng) cũng tăng lên, sự đứt gãy nhiễm sắc thể xảy ra thường xuyên hơn ở những người có đột biến gen BLM. Tất cả những thay đổi này làm suy giảm các hoạt động bình thường của tế bào và gây ra các vấn đề sức khỏe. Ngoài ra, nếu không có protein BLM, tế bào sẽ không có khả năng sửa chữa các tổn thương ADN do tia cực tím gây ra, dẫn đến tăng độ nhạy cảm với ánh nắng mặt trời. Những thay đổi di truyền cho phép các tế bào phân chia một cách mất kiểm soát dẫn đến các bệnh ung thư xảy ra ở những người mắc hội chứng Bloom.
Chẩn đoán
Hội chứng Bloom được chẩn đoán dựa trên các triệu chứng lâm sàng và được xác nhận bằng kết quả xét nghiệm di truyền. Đôi khi, xét nghiệm di truyền tế bào và xét nghiệm máu được thực hiện để tìm các đặc điểm đặc trưng của hội chứng Bloom. Do các vấn đề về tăng trưởng nghiêm trọng, hội chứng Bloom đôi khi được nghi ngờ và có thể được chẩn đoán bằng các xét nghiệm trước khi sinh.
Điều trị
Điều trị hội chứng Bloom bao gồm chữa các triệu chứng và ngăn ngừa các biến chứng
Bảo vệ da
Để ngăn ngừa ung thư da và phát ban đỏ thường gặp ở hội chứng Bloom, những người bệnh nên hạn chế tiếp xúc với ánh nắng trực tiếp, đặc biệt trong khoảng thời gian từ 10 giờ sáng đến 4 giờ chiều. Một số cách giúp tránh tiếp xúc với ánh nắng mặt trời như bao phủ vùng da hở bằng quần áo dài tay, bao tay, mũ rộng vành và kính râm ngăn tia UV, đồng thời thoa kem chống nắng phổ rộng với SPF 30 hai lần mỗi ngày hoặc 2-3 giờ một lần nếu ở ngoài trời. Ngoài ra, bệnh nhân cũng nên khám da liễu định kỳ hàng năm để theo dõi sức khỏe của da.
Sử dụng hormone tăng trưởng
Sử dụng hormone tăng trưởng cho trẻ mắc hội chứng Bloom không chưa thực sự hiệu quả cho tất cả bệnh nhân, tuy nhiên cũng có một số trường hợp được cải thiện. Sử dụng hormone tăng trưởng được tiếp cận một cách thận trọng ở những người này, vì những lo ngại về tăng nguy cơ phát triển khối u. Nếu được kê đơn nội tiết tố tăng trưởng, các đáp ứng tăng trưởng và nồng độ IGF-1 và IGFBP-3 trong huyết thanh phải được theo dõi chặt chẽ. Nên ngưng việc điều trị bằng hormone tăng trưởng trong trường hợp trẻ có tốc độ tăng trưởng quá mức.
Điều trị tiểu đường
Bệnh tiểu đường cũng phổ biến ở những người mắc hội chứng Bloom. Do đó, đường huyết và hemoglobin A1C nên được đo hàng năm bắt đầu từ 10 tuổi. Nên cảnh giác với các dấu hiệu và triệu chứng như giảm cân, thường xuyên khát nước và đi tiểu. Điều trị tiểu đường ở những người mắc hội chứng Bloom cũng giống như ở những bệnh nhân tiểu đường khác.
Điều trị suy yếu miễn dịch
Đối với những người có vấn đề về miễn dịch dịch thể, có thể hỗ trợ miễn dịch bằng cách tiêm gamma globulin (globulin miễn dịch – IG) dưới da hàng tuần hoặc hàng tháng. Nếu bệnh nhân bị nhiễm trùng cơ hội, nên kiểm tra tình trạng suy giảm miễn dịch, bao gồm mức độ huyết thanh miễn dịch, đáp ứng kháng thể với vaccine và các xét nghiệm đo lượng tế bào lympho B và T.
Tầm soát ung thư
Đối với bệnh nhi, các hướng dẫn giám sát sức khỏe đề nghị tầm soát khối u bằng cách thực hiện siêu âm bụng 3 tháng một lần cho đến năm 8 tuổi. Ngoài việc tầm soát, các dấu hiệu và triệu chứng như tiểu ra máu và một khối ở bụng không đau. Việc tầm soát các bệnh ung thư máu phần lớn phụ thuộc vào nhận thức về các dấu hiệu và triệu chứng, bao gồm giảm cân không chủ ý, mệt mỏi, xanh xao, sốt không rõ nguyên nhân, chảy máu bất thường, xuất hiện đốm xuất huyết và đổ mồ hôi ban đêm.
Tầm soát ung thư đại trực tràng bắt đầu từ 10-12 tuổi, nên nội soi đại tràng hàng năm và xét nghiệm hóa miễn dịch trong phân (FIT) 6 tháng một lần.
Phụ nữ trên 18 tuổi nên chụp MRI vú để phát hiện ung thư vú hàng năm. Các hướng dẫn gần đây nhất cũng khuyến nghị chụp MRI toàn thân 1-2 năm một lần, bắt đầu từ 12 hoặc 13 tuổi để phát hiện các loại ung thư khác.
Điều trị ung thư
Điều trị ung thư cho những người mắc hội chứng Bloom đòi hỏi phải sửa đổi các phác đồ điều trị ung thư tiêu chuẩn do sự quá mẫn cảm với hóa chất và bức xạ ion ở những người này. Người bệnh thường có liều lượng dung nạp bằng hoặc dưới 50% liều lượng hóa trị tiêu chuẩn, chưa có bằng chứng rõ ràng rằng điều này sẽ cho kết quả kém hơn. Tuy nhiên, tổng liều lượng sử dụng dựa trên trọng lượng có thể thích hợp với một số loại thuốc hóa trị liệu như steroid và chất ức chế tyrosine kinase.
Hỗ trợ sinh sản
Vì vô sinh là một vấn đề phổ biến, nam giới mắc hội chứng Bloom có thể tiến hành phân tích tinh dịch để đánh giá các bất thường về số lượng và khả năng di chuyển của tinh trùng. Đối với phụ nữ, nên biết các dấu hiệu mãn kinh sớm và cũng có thể cân nhắc việc đông lạnh noãn (bảo quản lạnh). Ngoài ra, công nghệ hỗ trợ sinh sản có thể có giúp ích nếu không thể thụ thai tự nhiên. Những người muốn thụ thai nên cân nhắc tham khảo ý kiến của bác sĩ chuyên khoa hiếm muộn.
Dạng di truyền
Bệnh được di truyền theo kiểu lặn trên nhiễm sắc thể thường, nghĩa là cả hai bản sao của gen trong mỗi tế bào đều có đột biến. Bố mẹ của người mắc bệnh thường mang một bản sao của gen đột biến, nhưng họ thường không biểu hiện các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh.
Phòng ngừa
Hội chứng Bloom thường được di truyền theo cơ chế gen lặn rất khó phát hiện ở những người thể mang vì gần như không có biểu hiện rõ ràng, đến khi có con mới biết được thì đã quá muộn. Do đó, các cặp vợ chồng trước khi mang thai cần làm xét nghiệm gen lặn để sàng lọc căn bệnh này, đảm bảo sinh con khỏe mạnh và lành lặn.
Các tên gọi khác
- Hội chứng Bloom
- Hội chứng Bloom-Torre-Machacek
- Ban đỏ do telangiectatic bẩm sinh
References
- Genetic Testing Information. Bloom syndrome. Retrieved September 4, 2021 from https://www.ncbi.nlm.nih.gov/gtr/conditions/C0005859/
- Catalog of Genes and Diseases from OMIM. BLOOM SYNDROME; BLM. Retrieved September 4, 2021 from https://omim.org/entry/210900
- U.S. National Library of Medicine. Bloom syndrome. Retrieved September 4, 2021 from https://medlineplus.gov/genetics/condition/bloom-syndrome/
- National Organization for Rare Disorders (NORD). Bloom Syndrome. Retrieved September 4, 2021 from https://rarediseases.org/rare-diseases/bloom-syndrome/
- NATIONAL CANCER INSTITUTE. Bloom syndrome. Retrieved September 4, 2021 from https://www.cancer.gov/publications/dictionaries/cancer-terms/def/bloom-syndrome
- National Center for Advancing Translational Sciences. Bloom syndrome. Retrieved September 4, 2021 from https://rarediseases.info.nih.gov/diseases/915/bloom-syndrome
- DermNet NZ. Bloom syndrome. Retrieved September 4, 2021 from https://dermnetnz.org/topics/bloom-syndrome/
- Bloom Sydrome Association. ABOUT BLOOM SYNDROME. Retrieved September 4, 2021 from https://www.bloomsyndromeassociation.org/page/aboutbloomsyndrome
- Cunniff, C., Djavid, A. R., Carrubba, S., Cohen, B., Ellis, N., Levy, C. F., Jeong, S., Lederman, H., Vogiatzi, M., Walsh, M., Zauber, A. G. (2018). Health supervision for people with Bloom syndrome. American Journal of Medical Genetics, 176, 1872-1881.