Hội chứng Swyer
Hội chứng Swyer là bệnh di truyền ảnh hưởng đến quá trình phát triển giới tính. Bình thường, nhiễm sắc thể quy định giới tính của một người, tuy nhiên, người mắc hội chứng Swyer có giới tính phát triển không tương ứng với cấu trúc nhiễm sắc thể.
Ảnh: Cấu trúc sinh dục nữ
Nguồn: U.S. National Library of Medicine
Ảnh: Đột biến mới
Nguồn: U.S. National Library of Medicine
Ảnh: Karyotype 46, XY
Nguồn: U.S. National Library of Medicine
Ảnh: Nhiễm sắc thể đồ người bình thường
Nguồn: U.S. National Library of Medicine
Biểu hiện lâm sàng
Một người thường có 46 nhiễm sắc thể trong mỗi tế bào. Nhiễm sắc thể X và nhiễm sắc thể Y là hai trong số 46 nhiễm sắc thể, được gọi là nhiễm sắc thể giới tính vì chúng quy định một người sẽ phát triển các đặc điểm giới tính nam hay nữ. Nữ giới thường có hai nhiễm sắc thể X (46,XX), trong khi nam giới thường có một nhiễm sắc thể X và một nhiễm sắc thể Y (46,XY ). Trong hội chứng Swyer, người bệnh mang một nhiễm sắc thể X và một nhiễm sắc thể Y trong mỗi tế bào nhưng lại có cấu trúc sinh dục nữ .
Người mắc hội chứng Swyer có cơ quan sinh dục ngoài đặc trưng của phụ nữ. Tử cung và ống dẫn trứng phát triển bình thường, nhưng tuyến sinh dục (buồng trứng hoặc tinh hoàn) không hoạt động. Người bệnh có cụm mô tuyến sinh dục chưa phát triển, do đó hội chứng Swyer còn được gọi là rối loạn phát triển tuyến sinh dục hoàn chỉnh 46,XY. Mô còn lại của tuyến sinh dục thường trở thành ung thư, do đó chúng thường được phẫu thuật cắt bỏ sớm.
Người mắc hội chứng Swyer lớn lên có giới tính nữ. Bởi vì buồng trứng không hoạt động, họ cần sử dụng liệu pháp thay thế hormone trong giai đoạn dậy thì để tạo ra kinh nguyệt và phát triển các đặc điểm giới tính nữ như ngực nở và phát triển tử cung. Liệu pháp thay thế hormone cũng giúp hạn chế nguy cơ giảm mật độ xương (loãng xương). Phụ nữ mắc chứng này không tạo ra trứng, nhưng họ có thể mang thai với trứng hoặc phôi được hiến tặng.
Hội chứng Swyer thường chỉ ảnh hưởng đến phát triển giới tính. Tuy nhiên, tùy thuộc vào nguyên nhân, hội chứng Swyer cũng có thể xảy ra cùng với các bệnh lý khác như vấn đề thần kinh hoặc bất thường nghiêm trọng về xương như chứng loạn sản Campomelic.
Độ phổ biến
Tỷ lệ chính xác những người mắc hội chứng Swyer chưa rõ ràng, nhưng ước tính khoảng 1/80.000 người.
Nguyên nhân
Trong hầu hết các trường hợp hội chứng Swyer, nguyên nhân chính xác vẫn chưa rõ ràng. Người ta cho rằng sự gián đoạn hoặc thay đổi của một gen (đột biến gen) hoặc các gen liên quan đến sự khác biệt giới tính bình thường của thai nhi có cấu trúc nhiễm sắc thể XY gây ra hội chứng Swyer.
Các đột biến gen SRY được xác định ở khoảng 15% trường hợp mắc hội chứng Swyer. Gen SRY nằm trên nhiễm sắc thể Y, cung cấp hướng dẫn tạo ra protein vùng Y quy định giới tính (sex-determining region Y). Protein này là một yếu tố phiên mã, nó hoạt động bằng cách liên kết với các vùng của ADN và kiểm soát hoạt động của một số gen. Protein vùng Y quy định giới tính bắt đầu các quá trình liên quan đến phát triển giới tính nam, từ đó khiến thai nhi phát triển tuyến sinh dục nam (tinh hoàn) và ức chế cấu trúc sinh dục nữ phát triển. Đột biến gen SRY gây ra hội chứng Swyer ngăn cản sản xuất protein vùng Y xác định giới tính hoặc sản xuất một protein không hoạt động. Một bào thai có tế bào không sản xuất protein vùng Y xác định giới tính dẫn đến tử cung và ống dẫn trứng phát triển thay vì tinh hoàn phát triển, mặc dù có nhiễm sắc thể điển hình của nam giới.
Hội chứng Swyer cũng có thể do đột biến gen MAP3K1 chiếm tới 18% các trường hợp. Gen MAP3K1 cung cấp hướng dẫn tạo ra một loại protein có chức năng điều chỉnh các đường tín hiệu kiểm soát nhiều quá trình khác nhau trong cơ thể, bao gồm quá trình quy định các đặc điểm giới tính trước khi sinh. Các đột biến này làm giảm tín hiệu biệt hóa giới tính nam và tăng cường tín hiệu biệt hóa giới tính nữ, từ đó ngăn cản tinh hoàn phát triển trong khi cho phép tử cung và ống dẫn trứng hình thành.
Các đột biến gen DHH và NR5A1 cũng được xác định ở một số ít người mắc hội chứng Swyer. Gen DHH cung cấp hướng dẫn tạo ra một loại protein quan trọng cho giai đoạn phát triển ban đầu của các mô ở nhiều bộ phận của cơ thể. Gen NR5A1 cung cấp hướng dẫn tạo ra một yếu tố phiên mã gọi là yếu tố tạo steroid 1 (Steroidogenic Factor 1 - SF1). Protein này kiểm soát hoạt động của một số gen liên quan đến cơ chế sản xuất hormone sinh dục và biệt hóa giới tính. Các đột biến gen DHH và NR5A1 ảnh hưởng đến quá trình quy định giới tính, ức chế tinh hoàn phát triển và cho phép tử cung và ống dẫn trứng thành hình ở những người có nhiễm sắc thể đặc trưng của nam giới.
Một số người mắc hội chứng Swyer có đột biến gen NR0B1 trên nhiễm sắc thể X. Đột biến gen DEAH37 là nguyên nhân phổ biến. Một số trường hợp hiếm gặp liên quan đến đột gen protein Wnt-4 (WNT4) và CBX2, GATA4 và WWOX. Người ta cho rằng còn có các gen khác liên quan đến hội chứng Swyer nhưng chưa tìm ra.
Các yếu tố không do di truyền như thuốc nội tiết mà người mẹ dùng trong thai kỳ cũng có liên quan đến tình trạng này. Tuy nhiên, ở hầu hết trường hợp mắc hội chứng Swyer, nguyên nhân vẫn chưa rõ ràng.
Chẩn đoán
Chẩn đoán hội chứng Swyer thực hiện dựa trên đánh giá lâm sàng, tiền sử bệnh, các dấu hiệu đặc trưng (như không có kinh nguyệt, tuyến sinh dục) và nhiều loại xét nghiệm bao gồm phân tích nhiễm sắc thể. Ví dụ: một kỹ thuật gọi là lai tại chỗ phát huỳnh quang (FISH) có thể được sử dụng để xác định karyotype của một người. Karyotype là một sơ đồ nhiễm sắc thể cho biết cấu trúc bộ nhiễm sắc thể của một người (tức là 46 nhiễm sắc thể trong một tế bào). 46 nhiễm sắc thể này được chia thành 22 cặp tương ứng (mỗi cặp có một nhiễm sắc thể nhận từ bố và một nhiễm sắc thể nhận từ mẹ). Các nhiễm sắc thể giới tính được xem như một cặp riêng biệt, có thể là XX hoặc XY.
Xét nghiệm di truyền có thể xác định xem có các gen đột biến cụ thể liên quan đến hội chứng Swyer hay không.
Kiểm tra các thành viên trong gia đình của người mắc hội chứng Swyer có thể giúp xác định nguyên nhân gây bệnh là tự phát hay do di truyền trong gia đình.
Điều trị
Quá trình điều trị hội chứng Swyer đòi hỏi nỗ lực phối hợp của một nhóm các bác sĩ chuyên khoa. Bác sĩ nhi khoa, bác sĩ nội tiết nhi, chuyên gia di truyền, bác sĩ tiết niệu hoặc phụ khoa, bác sĩ tâm lý hoặc bác sĩ tâm thần, nhân viên xã hội và các chuyên gia chăm sóc sức khỏe khác. Có thể cần phải lập kế hoạch có hệ thống và toàn diện để điều trị cho trẻ.
Điều trị hội chứng Swyer bằng liệu pháp thay thế nội tiết tố bao gồm thay thế estrogen và progesterone thường bắt đầu từ tuổi dậy thì. Ngoài tác dụng giúp phát triển bình thường các đặc điểm sinh dục phụ, liệu pháp thay thế hormone cũng có thể ngăn ngừa mất xương và loãng xương.
Các tuyến sinh dục thường được phẫu thuật cắt bỏ vì chúng khiến người bệnh có nguy cơ phát triển khối u tuyến sinh dục cao hơn.
Người mang đột biến SF1 có thể bị suy tuyến thượng thận và nên được kiểm tra và điều trị. Tư vấn di truyền được khuyến khích cho những người mắc hội chứng và gia đình của họ. Các phương pháp điều trị khác là điều trị triệu chứng và hỗ trợ.
Mặc dù phụ nữ mắc hội chứng Swyer bị vô sinh, nhưng họ có thể mang thai bằng trứng hiến tặng.
Dạng di truyền
Hầu hết các trường hợp hội chứng Swyer không di truyền, chúng xảy ra ở những người không có tiền sử trong gia đình. Nguyên nhân mắc bệnh có thể do yếu tố môi trường hoặc đột biến mới xảy ra trong quá trình hình thành tế bào sinh sản (trứng hoặc tinh trùng) hoặc trong quá trình phát triển phôi sớm.
Hội chứng Swyer liên quan SRY thường do một đột biến mới gây ra. Tuy nhiên, một số người thừa hưởng gen SRY bị đột biến từ người cha bị khảm nhưng không mắc bệnh. Thể khảm nghĩa là chỉ có đột biến trong một số tế bào (bao gồm một số tế bào sinh sản), hầu hết tế bào còn lại không đột biến. Trong một số trừng hợp hiếm gặp, tất cả các tế bào của người cha đều mang đột biến nhưng cũng có một đột biến khác ngăn cản bệnh biểu hiện. Do gen SRY nằm trên nhiễm sắc thể Y nên hội chứng Swyer do đột biến gen SRY gây ra được mô tả là có kiểu di truyền liên kết Y.
Khi hội chứng Swyer liên quan đến đột biến gen MAP3K1 hoặc NR5A1, nguyên nhân thường do một đột biến mới gây ra. Trong một số rất ít trường hợp, đột biến có thể được di truyền từ cha hoặc mẹ, vì những gen này không nằm trên nhiễm sắc thể Y. Khi đó, hội chứng Swyer có kiểu di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường, nghĩa là một bản sao của gen bị thay đổi trong mỗi tế bào là đủ để gây bệnh.
Hội chứng Swyer do đột biến gen DHH được di truyền theo kiểu lặn trên nhiễm sắc thể thường, nghĩa là cả hai bản sao của gen trong mỗi tế bào đều có đột biến. Bố mẹ của người mắc bệnh có một bản sao gen DHH đột biến trong mỗi tế bào, gọi là những người mang gen hay thể mang (carrier). Phụ nữ mang một bản sao gen DHH đột biến thường không bị ảnh hưởng phát triển giới tính. Nam giới mang một bản sao gen DHH đột biến cũng có thể không bị ảnh hưởng hoặc đôi khi có những bất thường về bộ phận sinh dục như xuất hiện lỗ niệu đạo ở mặt dưới của dương vật.
Các trường hợp hội chứng Swyer do đột biến gen NR0B1 được di truyền theo kiểu liên kết X, khi có một gen bất thường trên nhiễm sắc thể X. Phụ nữ có hai nhiễm sắc thể X, một trong hai nhiễm sắc thể X thường bị “tắt” nên tất cả các gen trên nhiễm sắc thể đó đều bị bất hoạt. Những phụ nữ có gen gây bệnh trên nhiễm sắc thể X thường không biểu hiện các triệu chứng vì nhiễm sắc thể X có gen gây bệnh bị “tắt”. Tuy nhiên, vì những người mắc hội chứng Swyer có cấu trúc nhiễm sắc thể XY và thiếu nhiễm sắc thể X thứ hai, do đó các gen đột biến trên nhiễm sắc thể X sẽ được biểu hiện và gây ra các triệu chứng của bệnh.
Phòng ngừa
Hội chứng Swyer xảy ra một phần do di truyền theo những các kiểu di truyền khác nhau. Trong đó, bệnh di truyền theo mô hình gen lặn rất khó phát hiện ở những người thể mang vì gần như không có biểu hiện rõ ràng, đến khi có con mới biết được thì đã quá muộn. Do đó, các cặp vợ chồng trước khi mang thai cần làm xét nghiệm gen lặn để sàng lọc hội chứng Swyer, đặc biệt là những người có người thân trong gia đình mắc hội chứng này, nhằm đảm bảo sinh con khỏe mạnh và lành lặn.
Các tên gọi khác
- 46,XY CGD
- 46, rối loạn hình thành tuyến sinh dục hoàn chỉnh XY
- 46, đảo ngược giới tính XY
- Rối loạn phát triển tuyến sinh dục, 46,XY
- Rối loạn phát triển tuyến sinh dục, kiểu nữ XY
- Rối loạn phát triển tuyến sinh dục đơn thuần 46,XY
- XY rối loạn phát triển tuyến sinh dục đơn thuần
References
- Genetic Testing Information. 46,XY disorder of sex development and 46,XY complete gonadal dysgenesis. Retrieved June 19, 2021 from https://www.ncbi.nlm.nih.gov/gtr/conditions/CN043561/
- Catalog of Genes and Diseases from OMIM. 46,XY SEX REVERSAL 1; SRXY1. Retrieved June 19, 2021 from https://omim.org/entry/400044
- Genetic and Rare Diseases Information Center. Swyer syndrome. Retrieved June 19, 2021 from https://rarediseases.info.nih.gov/diseases/5068/swyer-syndrome
- U.S National Library of Medicine. Swyer syndrome. Retrieved June 19, 2021 from https://medlineplus.gov/genetics/condition/swyer-syndrome/
- National Organization for Rare Disorders (NORD). Swyer syndrome. Retrieved June 19, 2021 from https://rarediseases.org/rare-diseases/swyer-syndrome/