Bệnh đỏ da và dày sừng tiến triển
Bệnh đỏ da và dày sừng tiến triển (Erythrokeratodermia variabilis et Progressiva) là bệnh di truyền thuộc nhóm những rối loạn về da. Bệnh thường khởi phát ngay từ lúc trẻ mới sinh hoặc khi còn nhỏ. Người bệnh có hai biểu hiện đặc trưng gồm mảng da màu đỏ và chứng tăng sừng.
Biểu hiện lâm sàng
Chứng tăng sừng
Bệnh đỏ da và dày sừng tiến triển dẫn đến chứng tăng sừng. Da người bệnh trở nên dày và thô ráp hơn với những mảng sừng có màu nâu đỏ. Mỗi cá nhân có mảng sừng khác nhau về kích thước và hình dạng. Chúng có thể nằm tại một vị trí cụ thể hoặc phân bố trên nhiều cơ quan.
Tuy nhiên, chứng tăng sừng có xu hướng cố định, do đó vùng da dày sừng hiếm khi lan đến những vị trí mới hoặc tự khỏi hoàn toàn. Một số ít trường hợp, mảng sừng sẽ tiến triển lớn hơn và lan rộng ra theo thời gian. Mặt khác, chứng tăng sừng có tính chất đối xứng, ví dụ mảng da dày sừng sẽ xuất hiện tại cùng một vị trí trên cả tay phải và tay trái của người bệnh.
Ảnh: chứng tăng sừng
Nguồn: Arve Bettum/Shutterstock.com
Mảng da màu đỏ
Biểu hiện lâm sàng thứ hai của bệnh đỏ da và dày sừng tiến triển là những vùng phát ban đỏ trên da. Chúng khác nhau về kích thước, hình dạng và có thể xuất hiện tại bất kỳ vị trí nào trên cơ thể.
Khác với tính chất cố định của chứng tăng sừng, mảng da nổi đỏ thường xuất hiện và tự mờ dần trong vòng vài giờ hoặc vài ngày. Trong giai đoạn trẻ nhỏ, tần suất da mẩn đỏ sẽ xảy ra phổ biến và thường xuyên hơn. Tình trạng da mẩn đỏ được kích hoạt khi người bệnh chịu căng thẳng quá mức, gặp chấn thương, thay đổi thời tiết đột ngột hoặc bị kích ứng tại vùng da đó.
Độ phổ biến
Bệnh đỏ da và dày sừng tiến triển là bệnh hiếm gặp nên chưa có thống kê cụ thể về tỉ lệ người bệnh. Hiện nay, khoảng hơn 200 trường hợp mắc bệnh đã được mô tả trong tài liệu y khoa.
Nguyên nhân
Đột biến gen GJB3, GJB4 và GJA1 gây ra bệnh đỏ da và dày sừng tiến triển. Ba gen này lần lượt cung cấp hướng dẫn tạo ra các protein tương ứng là connexin 31, 30.3 và 43. Những protein này thuộc họ protein connexin có chức năng hình thành khe liên bào—điểm nối nằm trên bề mặt tế bào. Những khe liên bào hình thành từ connexin 31, 30.3 và 43 hiện diện trong một số mô như lớp biểu bì nằm trên bề mặt của da.
Khe liên bào hình ống có thể điều chỉnh đóng hoặc mở, từ đó cho phép tế bào trao đổi nhanh chất dinh dưỡng, ion tích điện cũng như những phân tử nhỏ truyền tín hiệu đến các tế bào xung quanh. Vì vậy, protein connexin nắm vai trò vô cùng quan trọng đối với hoạt động trao đổi thông tin trực tiếp giữa các tế bào. Chúng giúp đồng bộ phản ứng của tế bào với những tác nhân kích thích nhằm đảm bảo cơ thể duy trì cân bằng nội môi mô cũng như kiểm soát tốc độ tăng trưởng và phát triển.
Đột biến gen GJB3, GJB4 và GJA1 dẫn đến thay đổi cấu trúc hoặc vị trí của các connexin 31, 30.3 và 43. Trường hợp gen GJB3 và GJB4 đột biến có thể khiến connexin tích tụ quá mức trong lưới nội chất (ER), từ đó gây ra hiện tượng căng thẳng lưới nội chất (stress ER). Người ta cho rằng stress ER quá mức sẽ làm tổn thương tế bào của lớp biểu bì và đẩy nhanh tốc độ cái chết tế bào (apoptosis). Ngoài ra, một số đột biến khác trên gen GJB3 hoặc GJB4 làm thay đổi hướng di chuyển của các phân tử trong kênh liên bào, do đó tế bào của lớp biểu bì có thể chết đi.
Đột biến gen GJA1 dẫn đến phiên bản protein connexin 43 bất thường và không thể tiếp cận với bề mặt tế bào để hình thành kênh liên bào. Thay vào đó, các protein connexin 43 bất thường hiện diện trong bộ máy Golgi. Bộ máy Golgi nằm trong tế bào, chúng nhận protein từ lưới nội chất, sau đó xử lý, phân loại và vận chuyển đến những vị trí khác như lysosome hoặc màng sinh chất. Ngoài ra, bộ máy Golgi còn thực hiện chức năng tổng hợp glycolipid và sphingomyelin. Tuy nhiên, người ta chưa rõ thiếu protein connexin 43 trên bề mặt tế bào ảnh hưởng như thế nào đến quá trình hình thành kênh liên bào. Mối quan hệ giữa tổn thương tế bào biểu bì và cơ chế gây bệnh đỏ da và dày sừng tiến triển đang được tìm hiểu.
Bên cạnh đó, trong một số trường hợp hiếm gặp khác, cả ba gen GJB3, GJB4 và GJA1 của người bệnh đều bình thường. Tuy nhiên, họ mang đột biến tại các gen khác không tạo ra protein connexin. Do đó, người ta cho rằng có thể còn nhiều đột biến khác cũng gây ra bệnh đỏ da và dày sừng tiến triển.
Chẩn đoán
Bệnh đỏ da và dày sừng tiến triển được chẩn đoán thông qua đánh giá biểu hiện lâm sàng kết hợp với phương pháp sinh thiết da và xem xét tiền sử bệnh gia đình. Ngoài ra, bệnh nhân nên thực hiện chẩn đoán phân biệt để tránh nhầm lẫn với những bệnh có triệu chứng tương tự như hội chứng KID, hội chứng Vohwinkel với bệnh vảy cá, bệnh vảy phấn đỏ nang lông và bệnh vẩy nến. Ngoài ra, bác sĩ có thể chỉ định làm xét nghiệm di truyền nhằm phát hiện các đột biến gen, từ đó kết quả chẩn đoán được xác nhận.
Điều trị
Hiện nay, chưa có phương pháp điều trị hoàn toàn bệnh đỏ da và dày sừng tiến triển. Các liệu pháp chủ yếu nhằm giảm nhẹ triệu chứng tăng sừng và mảng đỏ trên da bệnh nhân. Người bệnh nên hạn chế tiếp xúc và ma sát với vùng da chịu tổn thương.
Bên cạnh đó, bác sĩ có thể chỉ định bệnh nhân sử dụng một số loại thuốc để làm mỏng mảng da dày sừng như:
- Steroid
- Chất làm mềm
- Chất tiêu sừng như ure, axit salicylic hoặc axit alpha hydroxy
- Retinoids bôi hoặc dạng uống như acitretin hoặc isotretinoin
Dạng di truyền
Phần lớn bệnh đỏ da và dày sừng tiến triển di truyền theo kiểu trội trên nhiễm sắc thể thường. Do đó, một bản sao của gen trong mỗi tế bào đủ để gây ra bệnh. Người bệnh thừa hưởng đột biến từ cha hoặc mẹ mắc bệnh.
Trường hợp khác, bệnh do đột biến de novo xảy ra tại những người không có tiền sử mắc bệnh trong gia đình. De novo là đột biến gen mới xảy ra trong quá trình hình thành tế bào sinh sản (trứng hoặc tinh trùng) hoặc trong quá trình phát triển phôi sớm.
Bên cạnh đó, Bệnh có thể di truyền theo kiểu lặn trên nhiễm sắc thể thường nhưng không phổ biến. Do đó, bệnh chỉ biểu hiện khi có cả hai bản sao của gen đột biến trong mỗi tế bào. Bệnh nhân mắc bệnh lặn trên nhiễm sắc thể thường sẽ có bố và mẹ mang một bản sao của gen đột biến, nhưng họ ít khi biểu hiện triệu chứng bệnh.
Một số ít cá nhân mắc bệnh do đột biến gen phát sinh ngẫu nhiên tại một tế bào trong giai đoạn phát triển phôi thai trước khi sinh. Khi tế bào tiếp tục phân chia, các tế bào con của tế bào bất thường này sẽ mang đột biến, còn những tế bào khác thì không. Người bệnh mang cả hai loại tế bào này gọi là bệnh đỏ da và dày sừng tiến triển dạng khảm hoặc viêm bớt sùi thượng bì tuyến tính. Đối với dạng này, chứng dày sừng và mảng đỏ trên da chỉ xuất hiện tại một vùng nhỏ trên cơ thể. Chúng không có tính đối xứng và có thể nằm dọc theo các đường Blaschko .
Ảnh: Đường Blaschko
Nguồn: DermNet.org
Phòng ngừa
Bệnh đỏ da và dày sừng tiến triển di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường, nếu cha hoặc mẹ mắc bệnh, con sinh ra sẽ có 50% khả năng di truyền bệnh. Do đó, để bảo đảm 100% khả năng con không bị bệnh, cha mẹ có thể chọn phương pháp thụ tinh nhân tạo IVF và sàng lọc phôi PGS/PGD. Các thành viên trong gia đình nên khám sức khỏe và tầm soát bệnh định kỳ nếu có thành viên mắc bệnh. Các cặp vợ chồng trước khi mang thai cần tư vấn và xét nghiệm di truyền nhằm đảm bảo sinh con khỏe mạnh.
Trường hợp bệnh di truyền lặn do đột biến nhiều gen, cha mẹ mang đột biến dị hợp nên gần như không có biểu hiện bệnh, do đó rất khó phát hiện cho đến khi sinh con. Để chủ động phòng ngừa, cha mẹ nên làm xét nghiệm sàng lọc gen lặn để chủ động cho tương lai của con. Các cặp vợ chồng trước khi mang thai cần tư vấn và xét nghiệm di truyền đảm bảo sinh con khỏe mạnh. Người thuộc nhóm nguy cơ mắc bệnh cần khám sức khỏe và tầm soát bệnh định kỳ.
Các tên gọi khác
- EKV
- EKV-P
- EKVP
- Erythrokeratodermia variabilis
- Erythrokeratodermia variabilis of Mendes da Costa
- Erythrokeratodermia, progressive symmetric
- Progressive symmetrical erythrokeratoderma of Gottron
References
- Genetic Testing Information. Erythrokeratodermia variabilis et progressiva 1. Retrieved December 04, 2023 from https://www.ncbi.nlm.nih.gov/gtr/conditions/C4551486/
- Genetic and Rare Diseases Information Center. Erythrokeratoderma variabilis progressiva. Retrieved December 04, 2023 from https://rarediseases.info.nih.gov/diseases/10923/erythrokeratodermia-variabilis-et-progressiva
- Catalog of Genes and Diseases from OMIM. ERYTHROKERATODERMIA VARIABILIS ET PROGRESSIVA 1; EKVP1. Retrieved December 04, 2023 from https://omim.org/entry/133200
- U.S National Library of Medicine. Erythrokeratodermia variabilis et progressiva. Retrieved December 04, 2023 from https://medlineplus.gov/genetics/condition/erythrokeratodermia-variabilis-et-progressiva/
- DermNet NZ. Erythrokeratoderma Retrieved December 04, 2023 from https://dermnetnz.org/topics/erythrokeratoderma
- MalaCards. Erythrokeratodermia Variabilis Et Progressiva 5 (EKVP5). Retrieved December 04, 2023 from https://www.malacards.org/card/erythrokeratodermia_variabilis_et_progressiva_5
- National Institute of Health. Erythrokeratodermia variabilis et progressiva due to a novel mutation in GJB4. Retrieved December 04, 2023 from https://pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/34717022/
- National Organization for Rare Disorders. Erythrokeratodermia variabilis et progressiva. Retrieved December 04, 2023 from https://rarediseases.org/gard-rare-disease/erythrokeratodermia-variabilis-et-progressiva/
- Orphanet. Erythrokeratoderma variabilis progressiva. Retrieved December 04, 2023 from https://www.orpha.net/consor/cgi-bin/OC_Exp.php?lng=EN&Expert=308166